Trang

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Trăn trở của kẻ lười biếng - Khi Lãn Ông lên tiếng gởi người lớn

Hình như chàng trai lớp 12 chân thành hùng biện trong clip tự quay đòi hỏi cuộc sống hành xử Tự do và Dân chủ trong Giáo dục như vậy.

  Lịch sử có nhiều hiện tượng lặp lại, song khó có thể tin rằng con người bao giờ cũng có ý thức đúng về những diễn biến giống nhau. Chẳng hạn như chuyện bạn học sinh lớp 12 tự làm clip phát biểu về nền Giáo dục nước nhà năm 2013. Liệu bạn đó có ý thức mình đang là kẻ nổi loạn hay không? Liệu trong một mức độ nào đó, bạn có thấy là mình đang làm lại hành vi của nhiều học sinh trường Bưởi đầu thế kỷ trước như Đặng Xuân Khu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Khắc Viện ... nay nhắc lại thấy như một thời nào đó đã lùi xa ... quá xa khỏi ký ức người đương thời hôm nay vào năm 2013 này? Còn xa hơn sâu hơn nữa vào Lịch sử, em học sinh lớp 12 đã tự gọi mình là "kẻ lười biếng". Song sự so sánh đó chắc chắn chỉ là tình cờ. Người học trò Việt Nam của năm 2013 ấy làm sao đủ trình độ, đủ ý thức, đủ can đảm và đủ cả liều lĩnh so sánh mình với "kẻ lười biếng quê vùng biển" là Hải Thượng Lãn ông! Đơn giản thế này thôi: chàng trai lớp 12 trong clip tự quay chỉ mới có nổi một ý thức phản kháng đủ để anh lên tiếng gửi người lớn, gửi tất cả những người lớn có trách nhiệm trước sự nghiệp giáo dục của đất nước một lời dõng dạc này thôi: "Này, người lớn, các vị hãy nhìn vào chúng tôi đây, hãy nhìn kỹ những sản phẩm ra lò của các vị đây: thế hệ học trò chúng tôi đây, một lũ ngu và lười". Câu nói ấy gợi cho tất cả chúng ta một liên tưởng: chỉ là "thế hệ chúng tôi" thôi ư? Còn thế hệ các vị, thế hệ đã đúc khuôn thành chúng tôi thì sao? Đã gọi là liên tưởng, thì liên tưởng này nhất thiết sẽ dắt dây sang một liên tưởng khác cho đến một liên tưởng gần như kiệt cùng: các vị đã tổ chức nền giáo dục ra sao, theo hình ảnh nào để chúng tôi đến nông nỗi này - để chúng tôi thành một lũ ngu và lười, liệu các vị có thoát khỏi trách nhiệm trước tình trạng ấy không? Chàng trai trong clip ấy không nói thẳng hết ý nghĩ "nổi loạn" của thế hệ mình. Chàng trai ấy chỉ tập trung nêu câu hỏi: học biết bao nhiêu những "thứ đó" nhưng học để làm gì? Đây là câu hỏi khó trả lời ngay cả đối với khá nhiều người lớn. Bởi suy cho cùng thì mục đích học của họ cũng chỉ là để có một mảnh bằng "chính chủ" cộng thêm văn bằng hai văn bằng ba văn bằng bốn, cuối cùng cũng chỉ để nhăm nhe một chức quan to nhỏ, và chỉ đến thế thôi. Và trong suốt quá trình học, thì việc tự tìm đến tri thức bị coi là phụ, mà cả cuộc đời học đường hầu như chỉ là chuyện thi cử, suốt đời thi cử, mươi hai năm đằng đẵng thi cử... để làm gì? Chàng trai trong clip đã nói toạc ra: nếu không có chuyện thi, liệu còn có ai chịu học bài? Rõ ràng, trong câu hỏi ấy, người học trò "ngu và lười" bộc lộ nguyện vọng của mình rằng anh ta muốn học, học, và học, học khổ đến bao nhiêu cũng được, nhưng không chấp nhận cái khổ của thi cử, không bằng lòng coi thi cử như một kích thích cho việc học. Nguyện vọng ấy nếu được thực thi sẽ bẻ gãy cái roi của những nhà giáo dục các cỡ. Roi từ gia đình, từ họ tộc, từ truyền thống trường, từ những khu phố văn hóa đầy ma túy và bạo lực, và từ những cuộc ganh đua "chăm phần chăm" - áp lực của thói quen tư duy trong một nền văn hóa của số lượng và của sự thô kệch, nơi các "nhà văn hóa" chỉ nhìn thấy sức mạnh giả định trong đám đông, nơi đó tất cả những Einstein những Gandhi và những Charles Chaplin chụm lại cũng chỉ có thể chiếm 1 phần trăm sau nhiều số không đứng sau dấu phẩy! Dường như ta có nghe thấy em học sinh lớp 12 trong clip đó nói thế này: chúng con kính trọng các thày, nhưng xin thày hãy thoát ra khỏi cách diễn giải vẫn còn thiếu thẳng băng, đòi thế tục hóa nền Giáo dục khỏi mọi chủ thuyết. Dường như em học sinh lớp 12 vô danh đó đang nói thay các thế hệ tương lai, rằng các thày hãy Tự do trong giảng dạy và trong hành động. Tự do là cái Quyền thiêng liêng nhất mà Tự Nhiên phú cho con người. Có ai cấm các thày tạo ra những bộ sách mới theo chương trình học mới làm hả hê thỏa thuê nguyện vọng chấn hưng đất nước của các thày? Ngay cả ở bậc đại học là bậc phải dành lấy quyền tự chủ mà các thày cũng cứ bó tay cho sự Tự do trôi tuột đi mất, thế thì lũ trẻ con "ngu và lười" chúng em còn biết trông cậy vào đâu nữa? Các thầy hãy hành động tự do như trí tuệ tự do của các thày thôi thúc. Còn về phía xã hội, những nhà lãnh đạo phải có sứ mệnh dân chủ hóa cuộc chạy đua tự do vì sự nghiệp chấn hưng văn hóa và giáo dục của dân tộc. (Dân chủ hóa nói ở đây nghĩa là đối xử không phân biệt với mọi khuynh hướng sáng tạo văn hóa và giáo dục khác nhau). Nhưng giữa hai khuynh hướng Tự do và Dân chủ ấy, thì cần coi trọng khuynh hướng thứ nhất hơn. Dân chủ thì trước sau gì rồi cũng sẽ tới với cuộc sống xã hội. Nhưng Tự do là cái có sẵn trong từng con người sáng tạo. Sản phẩm của Tự do cách tân nền Giáo dục cho cả một Dân tộc sẽ xóa sổ những thứ tự do vờ vịt cốt nuốt trôi lợi nhuận một trường tư thục là cùng. Trong Tự do có sự thi đua lành mạnh của những tài năng đích thực vì nước vì dân. Hình như chàng trai lớp 12 chân thành hùng biện trong clip tự quay đòi hỏi cuộc sống hành xử Tự do và Dân chủ trong Giáo dục như vậy. Theo Phạm Toàn/ Tia Sáng
Đọc thêm!

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

Sáu cuộc chiến tranh trong 50 năm tới của Trung Quốc?



Gần đây, trang “Tin tức Trung Quốc” đăng bài viết “Sáu cuộc chiến tranh trong 50 năm tới của Trung Quốc” (không đề tên tác giả), có nội dung như sau: Trung Quốc (TQ) là một nước lớn chưa thống nhất, đây là nỗi nhục của dân tộc Hoa Hạ, là nỗi hổ thẹn của con cháu Viêm Hoàng đế thống nhất đất nước và sự tôn nghiêm của dân tộc, trong vòng 50 năm tới, TQ cần phải tiến hành sáu cuộc chiến tranh
Cuộc chiến tranh thứ nhất: Thống nhất Đài Loan (giai đoạn 2020 - 2025).
 Mặc dù, quan hệ hai bờ hiện nay đang có xu hướng đi vào hòa hoãn nhưng đừng hy vọng nhà đương cục Đài Loan (cho dù là Quốc dân đảng hay Dân tiến đảng) muốn thống nhất hòa bình với TQ đại lục, vì điều này không phù hợp với lợi ích tranh cử của đảng cầm quyền tại Đài Loan, cho nên trong thời gian dài sẽ tiếp tục nêu chủ trương giữ nguyên hiện trạng với TQ đại lục (như vậy đều có lợi cho hai đảng, Dân tiến đảng hung hăng một chút, Quốc dân đảng hòa hoãn một chút, cả hai đều giành được lợi ích chính trị trên chính trường Đài Loan), “độc lập” nhưng không giám độc lập thật sự, chỉ có thể kích động dư luận để kiếm lợi, trong khi đó “thống nhất” cũng sẽ là không thống nhất thật sự, chỉ có thể là đề cập chung chung. Đài Loan không thống nhất, đây là một tổn thương lớn nhất của TQ. Cho nên trong 10 năm tới, tức trước năm 2020, TQ cần phải nắm cho được phương châm chiến lược thống nhất, tuyên bố trước Đài Loan về thời hạn cuối cùng để thống nhất đất nước là năm 2025, hoặc là Đài Loan chấp nhận thống nhất hòa bình (đây là kết quả mà toàn thể người Hoa trên khắp thế giới mong đợi), hoặc là phải sự dụng vũ lực để thống nhất (đây là sự lựa chọn duy nhất mà TQ đại lục buộc phải làm). Để thống nhất, TQ phải làm tốt công tác chuẩn bị từ 3 đến 5 năm (thời điểm này, TQ hoàn toàn có ddr thực lực quân sự để thống nhất Đài Loan, như hàng không mẫu hạm của TQ chính thức được đưa vào biên chế, máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4 được hoàn thiện…). khi thời điểm đến, cho dù là sự dụng phương thức thống nhất như thế nào, TQ vẫn nhất định phải thống nhất, đây là một sứ mệnh lịch sử của dân tộc Hoa Hạ. Theo phân tích tình hình hiện nay, Đài Loan tất sẽ cự tuyệt thống nhất, TQ đại lục duy nhất chỉ có con đường sử dụng vụ lực để thống nhất. Cuộc chiến tranh thống nhất này là một cuộc chiến tranh đích thực mang ý nghĩa hiện đại hóa kể từ sau khi nước CHND Trung Hoa được thành lập, là một cuộc chiến tranh kiểm nghiệm toàn diện sức chiến đấu hiện đại hóa của quân đội TQ. Trong cuộc chiến này, TQ có thể dễ dàng giành chiến thắng, nhưng cũng có thể sẽ gian nan giành chiến thắng. Tình hình này phụ thuộc vào quyết định tham chiến của Mỹ, Nhật Bản đối với Đài Loan. Mỹ, Nhật Bản viện trợ cho Đài Loan, thậm chí xuất quan phản công Đại lục, TQ buộc phải sử dụng tổng lực để đối kháng Mỹ, Nhật Bản, như vậy sẽ trở thành cuộc đại chiến gian khổ và kéo dài. Nếu Mỹ, Nhật Bản không giám đối kháng với TQ, để TQ đại lục thu hồi Đài Loan, quân đội Đài Loan đương nhiên không thể chống đỡ, nhiều nhất là 3 tháng là có thể kiểm soát hoàn toàn Đài Loan. Mặc dù hiện nay ai cũng cho là TQ có đủ khả năng chống lại các thế lực can thiệp, nhưng trước khi thu hồi Đài Loan, tốt nhất là tiến hành bố trí thế cục, để Mỹ, Nhật Bản không kịp hoặc không dám tham chiến, như vậy TQ mới có thể thần tốc đánh chiến Đài Loan. Vậy phải bố trí thế cục thế nào để Mỹ, Nhật Bản không kịp hoặc không dám tham chiến? Tốt nhất là gây ra một hoặc hai cuộc chiến tranh trước đó, vi dụ như chiến tranh Itxraen – Iran, chiến tranh Nga – Nhật, chiến tranh Ấn Độ - Pakitxtan, hay đối đầu giữa hai miền Triều Tiên, như vậy Mỹ, Nhật khó có thể kịp thời hoặc không dám tham chiến. Đương nhiên, cho dù Mỹ, Nhật Bản có tham chiến hay không, cuối cùng TQ đều giành chiền thắng, đây là điều không phải nghi ngờ. Nhưng khác biệt ở chỗ, nếu Mỹ, Nhật tham chiến, nguyên khí kinh tế của TQ sẽ bị tổn thương nặng nề; nếu Mỹ, Nhật Bản không kịp hoặc không tham chiến, kinh tế của TQ sẽ không bị tổn thất. Tuy nhiên, cho dù Mỹ, Nhật có tham chiến hay không, về mặt quân sự, TQ sẽ có bước phát triển mang tính nhảy vọt. Vì sau khi thống nhất Đài Loan, hợp nhất kỹ thuật quân sự của Đài Loan, trong vòng từ 5 đến 10 năm, kỹ thuật quân sự của TQ sẽ có bước phát triển vượt bậc. Trong cuộc chiến tranh này, Mỹ không tham chiến còn có thể giữ được địa vị độc bá của mình, một khi tham chiến, địa vị độc bá tất bị lung lay. Sauk hi bị tổn thất nặng nề trong cuộc chiến này, địa vị bá chủ thế giới của Mỹ sẽ bị các nước nghi ngờ, đặc biệt là các nước nhỏ Đông Nam Á, đối diện với một TQ láng giềng hung mạnh, buộc các nước này không thể không tính toán lại xem đi theo hướng nào, đi theo ai. Mỹ không tham chiến còn có thể duy trì địa vị bá chủ thế giới khoảng 40 năm nữa, trong 40 năm này, TQ sẽ không có cớ thách thức bá quyền của Mỹ, TQ chỉ có thể tiếp tục chuyên tâm vào sự nghiệp thống nhất đất nước. Điểm có lợi nhất của cuộc chiến thống nhất Đài Loan là TQ đã phá vỡ chuỗi đảo bao vây thứ nhất của Mỹ để hướng ra Thái Bình Dương, như vậy TQ từ đó có thể tiến quân ra đại dương, mở rộng lợi ích thiết thân của TQ. 
 Cuộc chiến tranh thứ hai:Thu hồi các đảo tại biển Đông (giai đoạn 2025 - 2030). 
 Sau khi TQ thống nhất Đài Loan, nghỉ ngơi chỉnh đốn nhiều nhất là 2 năm, trong khoảng thời gian này TQ tuyên bố với các nước có tranh chấp tại biển Đông về thời hạn cuối cùng TQ sẽ sử dụng vũ lực để thu hồi các đảo là năm 2028, tất cả các nước xâm chiếm đảo của TQ tại biển Đông có thể đàm phán với TQ trong khoảng thời gian này, hoàn trả các đảo xâm chiếm cho TQ. TQ sẽ xuất phát từ quan điểm láng giềng hữu nghị và phong cách nước lớn, TQ còn có thể bảo đảm một phần lợi ích kinh tế của các nước xung quanh đã đầu tư vào các đảo ở biển Đông, nếu không TQ sẽ sử dụng vũ lực để thu hồi các đảo, đồng thời tịch thu toàn bộ lợi ích kinh tế, cũng như các khoản đầu tư trên các đảo này. 
 Cuộc chiến tranh thứ ba: Thu hồi Nam Tây Tạng (giai đoạn 2035 - 2040). 
 Hai mươi năm sau, mặc dù thực lực quân sự của Ấn Độ không bằng TQ, nhưng khi đó cũng là một trong số không nhiều nước lớn trên thế giới, vì vậy “đá chọi với đá” chắc chắn sẽ chịu nhiều tổn thất, cho nên tác giả cho rằng tốt nhất là ngay từ bây giờ TQ phải tìm mọi cách khiến Ấn Độ bị chia cắt thành mấy nước nhỏ, để Ấn Độ không còn sức đối kháng với TQ, tuy nhiên sách lược chia cẳ Ấn Độ không chắc chắn thực hiện được, nhưng ở mức độ thấp nhất cũng phải làm cho bang Assam tiếp giáp với Nam Tây Tạng (Ấn Độ gọi là bang Arunachal Pradesh) và Sikkim bị Ấn Độ xâm chiếm được độc lập, làm suy yếu thực lực của Ấn Độ trong đối kháng với TQ, như vậy mới là thượng sách. Trung sách là chuyển thành một lượng lớn vũ khí quân sự tiên tiến sang Pakixtan, trong khoảng thời gian năm 2035, ngầm giúp Pakixtan tấn công khu vực Nam Casơmia của Ấn Độ, giúp đỡ Pakixtan hoàng thành đại nghiệp thống nhất lãnh thổ. Tất nhiên, trong khí Ấn Độ và Pakixtan chưa thể kết thúc chiến tranh, TQ thần tốc tấn công Ấn Độ thu hồi khu vực Nam Tây Tạng đang bị chiến đóng. Ấn Độ sẽ không thể cùng lúc tác chiến với hai cuộc chiến tranh, kết cục đều gặp thất bại, như vậy TQ có thể dễ dàng lấy lại khu vực Nam Tây Tạng, Pakixtan cũng có thể hoàn thành việc kiểm soát hoàn toàn Casơmia. Đây là trung sách, là một biện pháp hay có thể thực hiện, TQ có thể tấn công trực diện Ấn Độ để thu hồi Nam Tây Tạng. Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh thứ nhất và thứ hai, TQ đã có thời gian khôi phục và tiếp tục phát triển trong vòng 10 năm, khi đó TQ đã là cương quốc mang tầm thế giới cả về kinh tế lẫn quân sự, duy chỉ có Mỹ và châu Âu là có thể xếp trên TQ (thời điểm đó có thể châu Âu sẽ hoàn thành nhất thể hóa). Vì vậy, sau khi thống nhất Đài Loan và thu hồi các đảo tại biển Đông, kỹ thuật quân sự của TQ đã có bước phát triển nhảy vọt, các trang thiết bị vũ khí hải, lục, không quân và vũ trụ đều có bước tiến dài, nhiều kỹ thuật quân sự ở vào trình độ dẫn đầu thế giới, khi đó sức mạnh quân sự của TQ chỉ có thể xếp sau Mỹ. Với thực lực như vậy, trong cuộc chiến thu hồi Nam Tây Tạng, Ấn Độ chắc chắn chịu một cuộc đại bại. Thứ nhất, sức mạnh tổng hợp của Ấn Độ yếu hơn nhiều so với TQ, Ấn Độ không có khả năng nghiên cứu, phát triển cũng như độc lập sản xuất các loại vũ khí mũi nhọn kỹ thuật cao. Năng lực động viên kinh tế cho thời chiến của Ấn Độ không bằng 1/10 của TQ, cho nên trong cuộc chiến với TQ, Ấn Độ không thể duy trì chiến tranh lâu dài, trong khi đó khả năng chiến tranh thần tốc của Ấn Độ lại kém xa so với TQ, vì vậy trong cuộc chiến tranh này, Ấn Độ thất bại là điều không phải nghi ngờ. Thứ hai, trong cuộc chiến tranh này, tuyệt đối không có quốc gia nào dám công khai giúp đỡ Ấn Độ. Khi đó, TQ đã là cường quốc thế giới, không có nước nào (kể cả Mỹ) dám công khai coi TQ là kẻ thù, nhiều khả năng nhất chỉ có 3 nước là Mỹ, Nga, Nhật Bản sẽ ngấm ngầm cung cấp vũ khí cho Ấn Độ, nhưng động thái này sẽ không gây ra những vấn đề lớn; ngược lại Pakixtan có thể nhân cơ hội này tấn công Ấn Độ. Thứ ba, Ấn Độ không dám và không thể sử dụng vũ khí hạt nhân. Mặc dù nói Ấn Độ đã có vũ khí hạt nhân, nhưng trong cuộc chiến này, Ấn Độ không dám sử dụng vũ khí hạt, vì vũ khí hạt nhân của Ấn Độ không đủ để hủy diệt TQ; đã không thể hủy diệt, một khi sử dụng, khả năng phản kích của TQ có thể hủy diệt vĩnh viễn Ấn Độ. Sau khi thu hồi Nam Tây Tạng, TQ sẽ đóng trọng binh tại đây, Ấn Độ sẽ không dám phản công, cuối cùng phải thừa nhận là lãnh thổ của TQ, như vậy vẫn có thể bao toàn thực lực nước lớn tại khu vực. 
 Cuộc chiến tranh thứ tư: Thu hồi đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu (giai đoạn 2040 - 2045). 
 Thời điểm đến giữa thế kỷ 21, TQ đã là cường quốc thế giới thật sự, khi đó Nhật Bản, Nga suy yếu, Mỹ, Ấn Độ không phát triển, TQ và châu Âu đồng thời nổi lên, là thời cơ tốt nhất để TQ thu hồi đảo Diếu Ngư và Lưu Cầu (Nhật Bản gọi là Okinaoa) bị Nhật Bản chiếm đóng. Nói tới đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu, có lẽ nhiều người chỉ biết rằng đảo Điếu ngư là lãnh thổ vốn có của TQ, nhưng lại không biết Nhật Bản đã xâm chiếm Lưu Cầu. Hiện nay bất luận là trong diễn đàn nhân dân hay cấp trung ương, khi đề cập đến vấn đề Đông Hải giữa TQ và Nhật Bản, đề cập đến cái gọi là “đường trung tuyến” do Nhật Bản hoạch định, hay vấn đề Lưu Cầu đều bị Nhật Bản dẫn giải sai lầm về lịch sử và chính trị - tức cho rằng Lưu Cầu là lãnh thổ của Nhật Bản. Nhật Bản đã xâm chiếm đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu của TQ nhiều năm qua, đánh cắp phi pháp nhiều tài nguyên tại Đông Hải của TQ, vì vậy đây sẽ là thời điểm thích hợp để lấy lại từ tay Nhật Bản. Vì thời điểm đó, Mỹ muốn can dự cũng khó, châu Âu càng không quan tâm đến vấn đề này, trong khí đó Nga cũng chỉ có thể ngồi nhìn. Nhiều nhất là trong vòng nửa năm, cuộc chiến có thể kết thúc, TQ đại thắng, Nhật Bản đành phải thừa nhận kết cục thất bại – đảo Điếu Ngư và Lưu Cầu trở về vô điều kiện với TQ. Đông Hải trở thành nội hải cùa TQ. 
 Cuộc chiến tranh thứ năm: Thống nhất Ngoại Mông (giai đoạn 2045 - 2050). 
 Mặc dù hiện nay có người cổ vũ Ngoại Mông (Mông Cổ) trở về TQ, nhưng điều này có hiện thực không? TQ chỉ có thể sau khi thống nhất Đài Loan, lấy hiến pháp và bản đồ Trung Hoa dân quốc làm căn cứ. Như vậy sẽ có người hỏi, vì sao phải lấy hiến pháp và bản đồ Trung Hoa dân quốc làm căn cứ? Làm như vậy khác nào nói CHND Trung Hoa bị Trung Hoa dân quốc thống nhất? Nói như vậy không có gì vô nghĩa cả, CHNH Trung Hoa là TQ, Trung Hoa dân quốc cũng là TQ, không cần quan tâm ai thống nhất ai, làm người TQ, chỉ cần TQ thống nhất, không bị làm nhục là tốt nhất. Cũng phải biết rằng hiện nay CHND Trung Hoa thừa nhận nề độc lập của Ngoại Mông, nếu lấy hiến pháp và bản đồ của CHND Trung Hoa làm căn cứ để thống nhất Ngoại Mông, thì rõ ràng đây là hành động đi xâm lược, cho nên chỉ có thể lấy hiến pháp và bản đồ của Trung Hoa dân quốc làm căn cứ để tiến hành thống nhất Ngoại Mông, như vậy xuất quân mới danh chính ngôn thuận. TQ cần đề xuất đại cương thống nhất với Ngoại Mông, tạo dựng bầu không khí dư luận xã hội Ngoại Mông trở về TQ, đồng thời tìm kiếm những tộc người tại Ngoại Mông có mong muốn sáp nhập vào TQ để ra sức giúp đỡ, cố gắng để họ có thể tiếp cận với tầng lớp có quyền quyết sách, nhằm chuẩn bị tốt cho sự nghiệp thống nhất Ngoại Mông. Bên cạnh đó, sau khi thu hồi Nam Tây Tạng (dự kiến vào năm 2040) TQ cũng phải tuyên bố với các nước trên thế giới rằng Ngoại Mông là lợi ích cốt lõi của TQ. Đương nhiên, Ngoại Mông có thể ra điều kiện để trở về, như vậy là điều tốt nhất so với việc phải dung vũ lực để thống nhất. Nếu thế lực bên ngoài can dự hoặc Ngoại Mông cự tuyệt thống nhất, TQ cần phải làm tốt mọi sự chuẩn bị về trang bị vũ khí nhằng thống nhất Ngoại Mông. Tài liệu cho rằng TQ vẫn có thể áp dụng mô hình như đã thống nhất Đài Loan, đưa ra thời hạn cuối cùng để thống nhất là vào năm 2045, để Ngoại Mông có thời gian mấy năm suy nghĩ, khi đến thời điểm nếu không chủ động chấp nhận trở về, cuối cùng mới sử dụng vũ lực thống nhất. Tới thời điểm đó, bốn cuộc chiến tranh đã kết thúc, TQ đã có đầy đủ thực lực về chính trị, quân sự và ngoại giao để thống nhất Ngoại Mông, Mỹ, Nga suy yếu sẽ không dám tham chiến, chỉ có thể tiến hành phản đối bằng ngoại giao, trong khi đó châu Âu sẽ giữ thái độ nước đôi, Ấn Độ không lên tiếng. Không đến ba năm, TQ có thể hoàn thành thống nhất mang tính tuyết đối đối với Ngoại Mông. Sau khi thống nhất Ngoại Mông, tuyến đầu sẽ bố trí trọng binh nhằm ngăn chặn Nga, đồng thời trong vòng 10 năm, ra sức tiến hành xây dựng mang tính nền tảng và thiết bị quân sự, để chuẩn bị cho sau này tiến hành thu hồi lãnh thổ do Nga xâm chiếm. 
 Cuộc chiến tranh thứ sáu: Thu hồi lãnh thổ bị Nga xâm chiếm (giai đoạn 2055 - 2060). 
 Hiện nay Trung – Nga được coi là láng giềng hữu nghị, song chẳng qua là vì cớ cùng mục tiêu chống Mỹ, thực chất vẫn tồn tại sóng ngầm và cảnh giác lẫn nhau. Sau khi giành được thắng lợi trong năm cuộc chiến tranh trước đó (khoảng năm 2050), TQ phải lên tiếng đòi Nga, phải trả lại lãnh thổ đã xâm chiếm của TQ từ đời nhà Thanh, tạo dư luận trên toàn thế giới có lợi cho TQ, nhưng tốt nhất là khiến Nga một lần nữa bị giải thể, tách thành nhiều nước nhỏ. Trước đây, Nga đã xâm chiếm tổng cộng khoảng 1,6 triệu km2 lãnh thổ của TQ, tương đương 1/6 tổng diện tích lãnh thổ lục địa của TQ hiện nay, Nga vẫn là kể thù truyền kiếp của dân tộc Trung Hoa, cho nên sau khi kết thúc năm cuộc chiến tranh trước, sẽ là thời điểm thích hợp để lấy lại lãnh thổ bị Nga xâm chiếm từ đời Thanh. Mặc dù thời điểm này các phương diện về hải, lục, không quân và vũ trụ của TQ đã vượt Nga, nhưng rõ rang đây là một cuộc chiến tranh nhằm vào một cường quốc hạt nhân, cho nên lúc đó TQ phải huy động mọi khả năng hạt nhân, như các loại vũ khí có khả năng đánh chặn hạt nhân tầm xa, tầm trung và tầm ngắn. Khả năng Nga đánh trả khi tiếp cận TQ là không thể, vì vào thời điểm này Nga đã không còn là đối thủ của TQ, chỉ có thể chấp nhận trả lại phần lãnh thổ đã xâm chiếm của TQ, nếu không cái giá phải trả là quá đắt. 
 Mộng bá vương đặc sệt máu đế quốc Đại Hán là: Sau khi kết thúc sáu cuộc chiến tranh, TQ trở thành 'cường quốc kinh tế và quân sự duy nhất trên thế giới' (!?), TQ cùng với châu Âu, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, châu Phi và Braxin thiết lập trật tự thế giới mới do TQ chủ đạo.
Đọc thêm!

Thứ Hai, 1 tháng 10, 2012

Nền Giáo dục Miền Nam trước 1975 - Giáo dục Đại học

Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên. 

Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. 
- Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). 
- Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng cao học hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteur de troisième cycle; tương đương thạc sĩ ngày nay). 
- Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học. 

Mô hình các cơ sở giáo dục đại học 
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở). Đây là mô hình tương tự như universitycủa Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng Anh:faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc trường hay trường đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…). Trong mỗi phân khoa đại học hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay). 
Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa khong do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên. 
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa. 
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam(Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng. 
Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học. Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí. 
Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập. Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật. Tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” ( Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”. 

 Các viện đại học công lập 
 Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học quốc gia Việt Nam (1955) – còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh. Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn. 
 Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa. 
 Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa. 
 Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972). 

 Các viện đại học tư thục 
 Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người. 
 Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên. 
 Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3 Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng. Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh. 
 Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo. 
 Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài 
 Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành. 

 Các học viện và viện nghiên cứu 
 Học Viện Quốc Gia Hành Chính: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận 10, Sài Gòn. Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự. 
 Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974. Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn , Viện Pasteur Đà Lạt ,Viện Pasteur Nha Trang , Viện Hải dương học Nha Trang , Viện Nguyên tử lực Đà Lạt , Viện Khảo cổ v.v. với những chuyên môn đặc biệt. 

 Các trường đại học cộng đồng 
 Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long. Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán. Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng. 

 Các trường kỹ thuật và huấn nghệ 
 Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tương đương với cấp đại học. 
Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc, vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông lâm súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương. 
 Trung Tâm Kỹ Thuậc Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức 
 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp. 

Các trường nghệ thuật
 Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ. 
 Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam, dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy. 
 Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật: thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940). 
 Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966). 

 Sinh viên du học ngoại quốc 
 Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
Đọc thêm!

Nền Giáo dục Miền Nam trước 1975 - Bậc Tiểu học và Trung học

Giáo dục tiểu học
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc) Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần. Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết). 

Giáo dục trung học 
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petruc Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. 

Trung học đệ nhất cấp
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ . Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp. 

Trung học đệ nhị cấp 
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chường và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn. Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8. Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình” (14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20). Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Petrús Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh và các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương. 

Trung học tổng hợp 
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey , sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống. Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên. 

Trung học kỹ thuật 
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp. Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đảng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM 

Các trường tư thục và quốc gia nghĩa tử 
Các trường tư thục và Bồ đề 
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học. Con số này Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo. Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam. Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới). 

Các trường Quốc gia nghĩa tử 
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Đọc thêm!

Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

Nền Giáo dục Miền Nam trước 1975 - Triết lý và Mục đích giáo dục

Tổng quan
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Cao Miên. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam - còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim) - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ nhất Cộng hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình. 
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ nhất Cộng hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các trường đại học cộng đồng). 
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. 

Triết lý giáo dục 
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc "nhân bản" (humanistic), "dân tộc" (nationalistic), và "khai phóng" được chính thức hóa ở hội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa (1967). 

1. Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục. 

2. Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác. 

3. Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới. 

Mục tiêu giáo dục 
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại? 

1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào. 

2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập. 

3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
Đọc thêm!

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

Hành trình vào vùng đất chết - Kỳ 4 - Lũ cá khổng lồ và thành phố ma


Trên cây cầu đường sắt bắc qua con kênh trong khuôn viên Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, chúng tôi ném bánh mì cho lũ cá tra khổng lồ.
Buổi trưa, nhóm chúng tôi ghé thăm tượng đài lính cứu hỏa ở thị xã Chernobyl. Họ là những người đã xả thân để khống chế sự bùng phát của ngọn lửa và bụi phóng xạ trong thảm họa năm 1986. Tôi nhớ mình từng được đọc những lời kể của họ. Anh lái xe Grigorii Khmel hồi tưởng: “Chúng tôi không biết nhiều về phóng xạ. Ngay cả những người làm việc ở nhà máy cũng thế… Vashchik, Kolya và Volodya Pravik dùng thang để leo lên mái… và tôi không bao giờ gặp lại họ nữa”. Lúc tới thăm Bảo tàng Chernobyl ở Kiev, tôi đã được xem một đoạn phim xúc động đến bàng hoàng. Chỉ trong khoảng 20 giây, đoạn phim quay cảnh một chiếc trực thăng Mi-8 bay qua đỉnh tháp của lò phản ứng số 4, đổ hóa chất xuống để khống chế phóng xạ. Một tích tắc sau, cánh quạt chính rồi đến đuôi máy bay va phải cần trục bên cạnh lò phản ứng, máy bay rơi xuống, tất cả tổ bay 4 người thiệt mạng.


 
Chiếc đu quay này chưa kịp đón một vị khách nào thì đã bị bỏ hoang cùng TP.Prypiat 
- Ảnh: Đỗ Hùng
Những người xả thân ngày ấy giờ đã được phong anh hùng, được dựng tượng, thậm chí được phong thánh. “Không ai bị lãng quên và không điều gì bị lãng quên”, lời của nữ sĩ Olga Berggolts mà tôi bắt gặp ở tượng đài hôm ấy, thật không thể quên được.
Lũ cá khổng lồ
Chúng tôi rời thị xã Chernobyl, sau chốc lát đã trông thấy những tháp cao vượt lên những vạt rừng xanh. Anh hướng dẫn viên Mark giới thiệu: “Phía trái là lò phản ứng số 4, nơi sự cố xảy ra”. Tôi nhìn theo hướng tay Mark chỉ, thấy một khối bê tông và sắt thép xám xịt, bạc màu thời gian. Không thể ngờ cái công trình đơn sơ này lại là nơi phát xuất của thảm họa kinh khiếp nhất trong lịch sử hạt nhân dân dụng. Sau 26 năm, nơi đây vẫn là nguồn phát sinh phóng xạ nguy hiểm và mối đe dọa sẽ vẫn còn tồn tại hàng chục, thậm chí hàng trăm năm nữa. Nhằm kiểm soát nguy cơ, chính phủ Ukraine đã vận động tài chính để xây một “quan tài” khổng lồ, phong tỏa lò phản ứng số 4. Sau nhiều lần trì hoãn, hiện Công ty Novarka của Pháp đang xúc tiến những bước đầu tiên để triển khai dự án ước tính tốn kém 1,54 tỉ euro này.
Mark dẫn chúng tôi đến cây cầu đường sắt bắc qua kênh đào trong khuôn viên Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl. Nước dưới cầu trong vắt, từng đàn cá bơi lội tung tăng. Đến lúc này chàng trai trẻ mới lôi bọc bánh mì ra và chia cho mỗi người một ít: “Chúng ta cùng cho cá ăn”. Chúng tôi ném bánh mì cho lũ cá, từ dưới lòng nước sâu, những con cá khổng lồ xuất hiện. Chúng thuộc bộ cá da trơn có râu. Tôi thấy trước đây người ta đồn rằng lũ cá ở đây dài tới 4-5 mét, nhưng hôm ấy tôi thấy chúng lớn bằng đứa bé 10 tuổi là cùng. Mark bảo: “Anh thấy không, cá vẫn sống khỏe dưới dòng nước này”. Tôi nghi ngờ khái niệm “khỏe” của Mark, bởi khả năng khu vực này (bao gồm đất, nước, không khí...) nhiễm xạ là rất cao. Có lẽ lâu ngày không có ai giết thịt nên lũ cá mới lớn đến thế, nhưng lớn chưa hẳn đã khỏe, tôi nghĩ bụng. Còn anh chàng Thụy Điển đồng hành thì nửa đùa nửa thật: “Có khi chúng bị nhiễm xạ nên mới lớn đến thế”. Không thể khẳng định dễ dàng như vậy, nhưng các cuộc kiểm tra trước đây từng cho thấy cá ở khu vực Chernobyl có tồn dư phóng xạ.
Prypiat đã chết
Tôi đứng rất lâu trước chiếc đu quay ấy. Chiếc đu quay cỡ trung, với khung sắt đã gỉ sét, bậc tam cấp mục nát, duy chỉ có những chiếc lồng thì vẫn giữ được màu vàng. Quanh chiếc đu quay, có thể nhận ra khu trò chơi xe điện, với lũ xe dúm dó, hộp điều khiển vỡ toác ra, những công tắc gãy vụn. Chiếc đu quay này nằm ở trung tâm Prypiat, thành phố đã chết cùng với thảm họa hạt nhân Chernobyl. Trong những ngày tươi sáng giữa thập niên 1980, người ta đã xây một công viên giải trí dành cho thiếu nhi, với chiếc đu quay là tâm điểm. Thế rồi, vụ cháy nổ ở nhà máy điện hạt nhân cách đó vài cây số xảy ra, và chiếc đu quay đã không kịp đón một vị khách trẻ tuổi nào trước khi bị bỏ quên vĩnh viễn.

http://www.thanhnien.com.vn/PublishingImages/img-thanhnien/quote1.gif;pv9fd2aab5433eefcc
Tất cả đều hoang tàn. Điện hạt nhân có thể là một phép màu, nhưng ở đây nó là thảm họa
http://www.thanhnien.com.vn/PublishingImages/img-thanhnien/quote2.gif;pv337a7fb6f27ef78c
Eryk Larsson
Không chỉ chiếc đu quay, cả thành phố Prypiat cũng bị bỏ hoang. Đô thị hiện đại mang tên dòng sông chảy qua khu vực này được xây dựng vào đầu thập niên 1970 để làm chỗ ở cho lực lượng nhân công nhà máy điện hạt nhân và gia đình của họ. Vào thời hoàng kim giữa thập niên 1980, Prypiat có tới 50.000 dân, hơn 20 trường học, 1 ga xe lửa, 167 xe buýt…
Sự phồn hoa của Prypiat chấm dứt vào rạng sáng 26.4.1986, khi lò phản ứng số 4 của nhà máy điện hạt nhân nổ tung. Một lượng lớn bụi phóng xạ phủ lên thành phố. Gần như ngay lập tức, người dân được lệnh sơ tán. Họ bỏ lại tất cả đồ đạc; phích cắm ti vi vẫn còn trong ổ, tủ áo quần chưa kịp khóa, chảo vẫn còn để trên bếp… Họ chỉ mang theo áo quần và hành lý xách tay, bởi lúc bấy giờ tất cả được thông báo sẽ trở về nhà sau 3 hoặc 4 ngày. Nhưng rồi họ không bao giờ có thể trở lại nơi chốn thân thương ấy. Không chỉ những người chết do ảnh hưởng của phóng xạ, do bệnh tật, tuổi già, mà tất cả cư dân Prypiat thuở xưa đều không thể trở về. Họ được tái định cư ở những nơi chốn mới. Prypiat hiện đại năm xưa trở thành thành phố ma.
Khi chúng tôi đến Prypiat vào buổi chiều một ngày đầu tháng 7 này, những tòa chung cư cao tầng đã bị cây cối bủa vây; những con đường thênh thang một thời, như đại lộ Lenin, phố Hữu nghị Quốc tế, đường Anh hùng Stalingrad… giờ chỉ còn là lối đi len lỏi dưới cây rừng. Hơn 26 năm đã trôi qua, cây cối mặc sức tung hoành trước sự vắng bóng của con người.
Chúng tôi chỉ được phép vào một số nhà, bởi rất nhiều tòa nhà có nguy cơ đổ sập bất cứ lúc nào. Chàng hướng dẫn viên Mark kể: “Dù chính quyền áp dụng lệnh cấm nghiêm ngặt, nhưng thời gian qua, nhiều người vẫn lẻn về đây để khuân đồ. Điều đó là rất nguy hiểm, bởi không thể biết được những đồ vật kia có bị nhiễm phóng xạ hay không”.
Chui ra khỏi một khu thể thao dưới nước, với đáy hồ khô nứt nẻ, chúng tôi đi dọc “đại lộ” Lenin. Giữa um tùm cây cối, tôi bắt gặp những cột đèn đường đã tắt từ lâu, trên thân cột có gắn những ngôi sao và búa liềm Xô Viết. Những ngôi sao từng một thời rực sáng dưới ánh đèn nê ông, giờ đây đang gỉ sét, lụi tàn cùng một Prypiat đang hóa thành cát bụi.
Giữa buổi chiều nắng gắt, anh bạn đồng hành Eryk Larsson nói với tôi: “Tất cả đều hoang tàn. Điện hạt nhân có thể là một phép màu, nhưng ở đây nó là thảm họa”. Vâng, ở Prypiat và ở Chernobyl trong ngày hôm ấy, chúng tôi đã chứng kiến những hình ảnh bàng hoàng của thảm họa có tên gọi hạt nhân.
Đỗ Hùng
Đọc thêm!

Hành trình vào vùng đất chết - Kỳ 3 - Nơi giáo đường vắng


Một giáo đường nhỏ với một phụ nữ già coi sóc. Nhà thờ Thánh Elijah là chỗ dựa tâm linh của những người làm việc tại Chernobyl.
Sau trạm kiểm soát thứ 2, thị xã Chernobyl hiện ra trước mặt chúng tôi. Đó là một nơi bình yên, với nhiều cây xanh, những con phố nhỏ và vô số nhà bỏ hoang, vốn từng là nhà của người dân, công nhân làm việc tại nhà máy điện hạt nhân cách đấy gần 20 km về phía tây bắc. Sau thảm họa 1986, tất cả đã được sơ tán, nhường những ngôi biệt thự, tòa chung cư, nhà biệt lập và hàng quán cho cây cỏ.
Chernobyl hôm nay không hẳn là một thành phố ma. Thi thoảng, chúng tôi gặp những người đạp xe, đi bộ trên những con đường rợp bóng bạch dương; hay một vài người thấp thoáng trong những ngôi nhà cũ. “Họ là công nhân. Có khoảng 2.000 người đang làm việc trong khu phong tỏa, một số ở lại qua đêm, số khác đi về hằng ngày. Một cách chính thức thì ở đây không có dân cư thông thường”, chàng hướng dẫn viên tên Mark giải thích.
Tiếng chuông ban trưa
Băng qua quảng trường có tượng đài Lenin màu trắng, chúng tôi tới trước cổng một nhà thờ Chính thống giáo. “Đây là cơ sở tôn giáo duy nhất còn hoạt động tại Chernobyl”, Mark bảo thế, trong khi gọi cổng. Mở cổng cho chúng tôi là một phụ nữ ngoài 50, dáng đẫy đà.
Giáo đường duy nhất còn hoạt động tại khu vực Chernobyl - Ảnh: Đỗ Hùng

Ngôi nhà thờ nhỏ nằm trong khuôn viên rộng và đầy hoa này có một lịch sử đáng tự hào nhưng cũng lắm bể dâu. Giáo đường Thánh Elijah được xây từ thế kỷ 16, đã nhiều lần bị phá hủy vì chiến tranh và hỏa hoạn. Khi thảm họa hạt nhân xảy ra vào tháng 4.1986, nó bị đóng cửa.
Nhưng cho dù có trải qua thảm họa hạt nhân, Chernobyl cũng không vì thế mà bị bỏ hoang hoàn toàn. Con người cần phải có mặt để xử lý ô nhiễm và vận hành các lò phản ứng còn lại cho đến ngày ngưng hoàn toàn vào năm 2000, theo cam kết của Tổng thống Leonid Kuchma. Với sự có mặt của con người, nhà thờ Thánh Elijah đã mở cửa trở lại vào năm 1994, làm chỗ dựa tâm linh cho lực lượng nhân sự tại Chernobyl thời hậu thảm họa. Nhà thờ không có ban bệ, chức sắc rườm rà, chỉ có một bà đẫy đà trông coi, phụ trách luôn cả việc tiếp khách và bán bưu thiếp kể từ khi vùng cấm mở cửa cho người ngoài tham quan. Buổi trưa, bà dẫn chúng tôi vào bên trong giáo đường. Những người Nga và Ukraine thắp nến, nguyện cầu trước Chúa của họ. Tiếng chuông vang lên, càng làm cho buổi trưa Chernobyl thêm thanh bình, như chưa hề có thảm họa kinh khiếp xảy ra.
Tôi mải đứng ngắm những bức bích họa, tượng trong giáo đường. Bên cạnh hình ảnh Chúa và các vị thánh của Chính thống phương đông, tôi gặp một bức bích họa mà anh chàng người Nga bảo rằng có tên là Cứu rỗi Chernobyl. Những vị thánh, thiên thần trong bức tranh là các chiến sĩ cứu hỏa đã hy sinh và những nạn nhân thiệt mạng trong thảm họa của 26 năm về trước. “Họ đã hy sinh vì nơi này, vì thế họ xứng đáng được tôn vinh”, người bạn đồng hành Yushev bảo thế.
Xung quanh ngôi giáo đường bé nhỏ, tôi cũng gặp nhiều huyền thoại. Người phụ nữ đẫy đà kể rằng, trong suốt thời gian sau thảm họa, khu vực quanh nhà thờ Thánh Elijah chưa bao giờ bị nhiễm phóng xạ nặng. “Lượng phóng xạ nơi đây thậm chí còn thấp hơn ở Kiev”, cô hướng dẫn viên Elena phụ họa. Người ta còn nói rằng, sở dĩ thị xã Chernobyl sống được, tức ít nhiễm xạ, cũng là nhờ nhà thờ Thánh Elijah. Tôi từng gặp những phiên bản tương tự. Ấy là khi đi dọc vùng duyên hải miền nam Sri Lanka sau trận sóng thần cuối năm 2004, gã tài xế Anton Haleem, một tín đồ Thiên Chúa giáo La Mã, cứ khăng khăng với tôi rằng sóng dữ đã phá hủy hầu hết nhà cửa, nhưng lại luôn tránh các công trình tôn giáo. Tôi không biết thực hư trong những câu chuyện đẫm chất tâm linh này thế nào, nhưng có một điều chắc chắn rằng niềm tin luôn là thứ người ta cần nhất trong cơn hoạn nạn, để còn nghị lực hướng về phía trước.
Những cuộc trở về
Chia tay giáo đường vắng, chúng tôi tới siêu thị. Gọi siêu thị cho có vẻ hoành tráng, thực ra chỉ là một cửa hàng tạp hóa, mà từ bên ngoài nhìn vào bạn sẽ tưởng đấy là một ngôi nhà bị bỏ hoang. Chị bán hàng trạc 40 tuổi, rất mập. Sau khi đi nhiều nơi ở Ukraine, tôi đã có một đúc kết cho riêng mình. Đó là con gái xứ sở này rất xinh đẹp, nhưng lại “phát tướng” rất nhanh khi qua tuổi 30. Chẳng hiểu vì nguyên nhân gì.
“Chị bán hàng này và người phụ nữ trong nhà thờ cũng là công nhân à?”, tôi thắc mắc với Mark. Anh chàng đáp: “Cũng có thể coi như vậy. Thực ra, ngoài công nhân, trong vùng cấm còn có một số người dân sinh sống. Họ đa phần là người già nhớ nơi chôn nhau cắt rốn nên cưỡng lại lệnh cấm của chính quyền. Họ sống bằng trợ cấp và chính quyền cũng du di cho họ”.
Trên đường phố Chernobyl, chúng tôi đã gặp một vài người như thế. Họ rất già và cô đơn. Có lẽ họ không còn lựa chọn nào khác là sống với quá khứ. “Tôi trở về gần 10 năm rồi. Người ta bảo ô nhiễm phóng xạ rất nguy hiểm, nhưng tôi chẳng thấy bệnh tật gì. Khó khăn chính chỉ là vấn đề kinh tế”, người phụ nữ già mà tôi gặp ở cửa hiệu tạp hóa nói thế, qua phiên dịch của Yushev. Bên trong vành đai cấm, hiện có vài trăm tới vài ngàn người già trở về bám trụ, trong khi con cháu họ đang sống tại Kiev, Slavutych - thành phố mới được lập nên làm nơi tái định cư cho dân trong vùng phong tỏa, hoặc những nơi khác.
Buổi trưa hôm đó, chúng tôi mua nhiều thứ. Những chiếc áo thun có biểu tượng hạt nhân và dòng chữ Chernobyl bằng tiếng Nga hoặc tiếng Ukraine với giá 59 hryvnia (khoảng 150.000 đồng); bưu thiếp in hình nhà cửa bị bỏ hoang, lò phản ứng số 4; chiếc bật lửa có dòng chữ CCCP của một thời dĩ vãng. Chúng tôi cũng trò chuyện với chị bán hàng đẫy đà vui tính.
Mark và Elena thì mua rất nhiều bánh mì. “Thứ này không phải để ăn trưa đâu. Tí nữa anh sẽ biết để làm gì”, Mark tỏ vẻ bí mật. Tôi háo hức chờ điều bí mật của anh chàng được tiết lộ. (còn tiếp)
Đỗ Hùng
Đọc thêm!

Kỳ 1 : Chernobyl hành trình vào vùng đất chết


Phóng viên Thanh Niên đến nơi từng xảy ra thảm họa hạt nhân dân sự khủng khiếp nhất lịch sử loài người.
Tôi lên kế hoạch cho chuyến đi tới Chernobyl trước khi đến Ba Lan và Ukraine dự Euro 2012. Những thông tin về hành trình đến “miền đất chết” có nhiều trên mạng, nhưng một cách cụ thể thế nào thì khó mà hình dung được, cho tới lúc tôi trực tiếp va chạm với nó.


Kế hoạch của tôi càng được thôi thúc mạnh mẽ hơn, khi vào ngày 19.6, trong khuôn khổ Euro 2012, UEFA tổ chức sự kiện từ thiện dành cho những đứa trẻ Chernobyl. Hôm đó, khi Alexa Milanytch, người đứng đầu Quỹ cứu trợ trẻ em Chernobyl, nói: “Nhiều em hiện vẫn phải đi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác để điều trị, để thay máu”, mọi người đã lặng đi vì xúc động. Tôi hỏi Milanytch làm sao để đến được Chernobyl, người phụ nữ này đã cho tôi những thông tin và địa chỉ rất hữu ích. Từ đầu mối ấy, tôi liên hệ với Ban Quản lý Chernobyl - cơ quan được thành lập để phụ trách việc phong tỏa khu vực nhiễm xạ. Tôi cũng gọi cho Diễn đàn Prypiat, là tổ chức của những cựu công dân Prypiat, thành phố được lập nên để làm nơi ở cho nhân công của Nhà máy điện Chernobyl.
Quy định ngặt nghèo
Những liên hệ này rốt cục đã đưa tôi tới Tour 2 Chernobyl, đơn vị chuyên tổ chức các chuyến đi tới “miền đất chết”. Mọi việc thoạt tiên diễn ra suôn sẻ hơn rất nhiều so với hình dung của tôi. Người phụ trách Alex Kadnew bảo tôi đóng 60 USD tiền đặt cọc và chờ đến ngày khởi hành: ngày 3.7. Nhưng sau khi chia tay, về tới nhà trọ, tôi vào mạng thì nhận được thư điện tử của Kadnew: “Nãy tôi quên nói với anh một điều quan trọng, đó là với Chernobyl thì mọi việc không có gì chắc chắn cả. Trong trường hợp chuyến đi bị hủy do Ban Quản lý Chernobyl hoặc do chúng tôi, anh sẽ nhận lại tiền cọc. Còn nếu anh không tham gia, thì sẽ mất tiền cọc”. Tôi gõ “OK” và bấm nút gửi trả lời.
“Thăm” Chernobyl không hề là một chuyến nghỉ mát, bởi ngay việc đọc các quy định thôi cũng đã khiến bạn toát mồ hôi. Đầu tiên, muốn đến Chernobyl, công dân nước ngoài phải đủ 18 tuổi và chưa từng bị cấm chỉ định tiếp xúc với các nguồn phóng xạ. Người đi phải mang theo hộ chiếu, chịu sự kiểm tra an ninh ở cổng vào và sẽ được đo liều lượng phóng xạ ở cổng ra, cũng như chấp nhận việc kiểm tra phóng xạ vào bất cứ thời điểm nào trong suốt hành trình. Trong khu vực phong tỏa, “du khách” không được phép rời xa người hướng dẫn, là một nhân viên của Ban Quản lý Chernobyl.

Lò phản ứng số 4, nơi thảm họa xảy ra 26 năm trước - Ảnh: Đỗ Hùng
Đó là những quy định chung, còn sau đây là một vài điều cấm: mang bất kỳ loại vũ khí nào; sử dụng đồ uống có cồn hoặc ma túy; ăn và hút thuốc ngoài trời; chạm vào các công trình, vật dụng và cây cối; ngồi hoặc đặt các vật dụng (máy quay phim, chụp hình...) xuống đất; mang bất cứ thứ gì ra khỏi vùng phong tỏa; vi phạm quy định về ăn mặc (không được mang giày hở, quần đùi, áo ngắn tay, váy...); ở trong vùng phong tỏa mà không có sự giám sát của nhân viên hữu trách... Người ta cấm hút thuốc trong khu vực này bởi các cuộc thử nghiệm cũng như một vài sự cố đã cho thấy khi nhiệt độ tăng lên cao, lượng phóng xạ trong không khí sẽ tăng lên. Các cuộc kiểm nghiệm cũng cho thấy có khoảng 90% lượng phóng xạ nằm trong đất, nên mới có điều cấm ngồi bệt và để máy quay, chụp hình... lên nền đất.
Sau khi nghiên cứu thật kỹ những điều trên, bạn phải ký vào cam kết, đại ý là: Tất cả công dân nước ngoài và Ukraine, khi tự nguyện tới Chernobyl vì bất kỳ mục đích gì, đều phải ý thức rằng mình có thể trở thành vật bị phơi nhiễm bởi chất phóng xạ (có trong đất, nước, không khí, nhà cửa, phương tiện vận chuyển...). “Tôi, tham gia đoàn nghiên cứu tới vùng phong tỏa, đồng ý rằng Cơ quan Quốc gia phụ trách khu vực sẽ không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ vấn đề nào về sức khỏe mà tôi có thể gặp phải trong tương lai do chuyến đi này gây ra. Nếu xe cá nhân, máy chụp ảnh, quay phim hoặc những thiết bị khác của tôi bị nhiễm phóng xạ, tôi sẽ không kiện Cơ quan Quốc gia phụ trách khu vực về những điều đó”.
Sau khi đọc chừng ấy cảnh báo và quy định, bạn có còn muốn đi nữa không?
Hình hài hiểm họa
Trong quá trình làm báo, tôi từng đi một số nơi có thể gọi là nguy hiểm, như vùng đông bắc Sri Lanka vào những năm 2004 - 2005, Myanmar vào mùa thu 2007, Zimbabwe... Ở những nơi ấy, nguy cơ hoặc là bom mìn, hoặc là chiến tranh, trộm cướp... Còn ở Chernobyl, nguy cơ chẳng mang một hình hài nào. Ngoại trừ những người bị nhiễm phóng xạ trực tiếp với lượng lớn thì có thể phát triệu chứng ngay lập tức, hầu hết các trường hợp khác không hề biết mình bị nhiễm nếu như không có máy móc kiểm tra. Thậm chí máy móc cũng không phát hiện được. Bạn sẽ nói cười khi rời vùng phóng xạ, sẽ còn phương phi sau đó rất nhiều ngày. Chất phóng xạ nhiễm vào người bạn cứ âm thầm nằm đấy, cho đến một ngày trong tương lai, bạn sẽ cảm thấy khó thở, ngứa ở da... và lúc ấy thì bóng ma mới hiện hình. Bóng ma cũng có thể kiên nhẫn chờ đợi đến thế hệ kế tiếp, lúc người phơi nhiễm sinh con.
Khi tôi tới thăm Bảo tàng Chernobyl tại Kiev cách đây vài ngày, bóng ma bụi phóng xạ từ Chernobyl đã hiện lên một cách cụ thể. Đó là mẫu vật gia súc quái thai ở quận Narodychi. Tại địa phương này, trong vòng 4 năm sau vụ Chernobyl, có khoảng 350 gia súc bị quái thai, với các biểu hiện như thiếu hoặc thừa chân, thiếu mắt, xương sườn...
Giữa lúc đang đọc những thông tin kinh khiếp này, tôi chợt nhận được thư điện tử của Alex Kadnew từ hãng Tour 2 Chernobyl: “Chào anh Đỗ, rất xin lỗi anh, chúng tôi đã không nhận được sự cho phép từ Ban Quản lý Chernobyl. Chuyến đi sắp tới bị hủy. Chúng tôi sẽ hoàn tiền đặt cọc cho anh”. Tôi thở hắt ra, chẳng biết thở phào hay thở dài nữa. Vậy là kế hoạch Chernobyl của tôi gần như chắc chắn không thực hiện được, bởi ngày về Việt Nam đã cận kề.
Nhưng tôi vẫn còn phương án B. (còn tiếp)
Hậu quả kinh hoàng
Sự cố cháy nổ tại lò phản ứng số 4, Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl xảy ra vào rạng ngày 26.4.1986. Sau thảm họa, một khu vực rộng lớn tại Ukraine, Belarus, Nga (lúc bấy giờ đều thuộc Liên Xô) đã bị bụi phóng xạ bao phủ. Nhiều khu vực khác tại châu Âu - xa tới tận Na Uy, Thụy Điển, Ý, Áo, Thụy Sĩ - cũng bị ảnh hưởng. Cho đến những năm gần đây, nhiều biện pháp an toàn vẫn còn được thực hiện tại nhiều nước. Chẳng hạn, Cơ quan Quản lý nông nghiệp Na Uy vào năm 2009 đã giám sát chặt chẽ 18.000 gia súc do lo ngại thức ăn nhiễm xạ. Tại Đức, hơn 1.000 trong số 440.350 con heo rừng săn bắt được vào năm 2010 bị nhiễm phóng xạ.
Đối với con người, chất phóng xạ từ Chernobyl trực tiếp gây ra cái chết của 31 người trong vòng 3 tháng sau khi thảm họa xảy ra. Còn những tác động gián tiếp và lâu dài thì vô cùng khủng khiếp. Tổ chức Diễn đàn Chernobyl vào năm 2005 đưa ra báo cáo cho biết có đến 4.000 trẻ em đã bị các chứng ung thư, máu trắng do hậu quả của thảm họa.
Tạp chí Chernobyl của Nga năm 2007 dẫn các báo cáo khoa học khẳng định có tới 985.000 trẻ chết non trong giai đoạn 1986-2004 do hậu quả của bụi phóng xạ. Còn theo Tổ chức Hòa Bình Xanh, “những bằng chứng rõ ràng cho thấy đã có ít nhất 200.000 người tại Belarus, Ukraine và Nga” chết trong giai đoạn 1990-2004 do hậu quả của vụ Chernobyl...
Đỗ Hùng
Đọc thêm!