Trang

Thứ Bảy, 1 tháng 1, 2011

Những bức ảnh thế giới đẹp nhất 2010

Tạp chí Time đã công bố những bức ảnh thế giới đẹp nhất năm 2010. Các hình ảnh từ vị tổng thống Mỹ quyền lực tới người dân khốn khổ vì động đất tại Haiti được ghi lại rất sống động.


Tổng thống Mỹ Obama: Một năm trong nhiệm sở.


Động đất ở Haiti. Người Haiti đang nỗ lực khôi phục cuộc sống khi họ sống trang các khu lều tạm thời tại một trại tị nạn ở Port-au-Prince.



Những tử thi vô thừa nhận ở bên ngoài bức tường nghĩa trang tại Port-au-Prince



Núi lửa phun trào tại Iceland.



Mặt biển gần Venice, Louisiana hơn hai tháng sau thảm hoạ nổ dàn khoan làm hàng triệu tấn dầu tràn ra vịnh Mexico



Khi nhu cầu cung cấp nước của Ấn Độ tiếp tục gia tăng, thì bờ sông Hằng ngày một lùi xa và con sông ngày càng ô nhiễm



Ngôi nhà lỗ chỗ vết đạn, bị bỏ hoang gần hai năm sau cuộc đấu súng dữ dôi giữa quân đội Mexico với các thành viên băng đảng ma tuý La Familia



Gương mặt Florencio Avalos, một trong số 33 thợ mỏ bị mắc kẹt tại một mỏ khai thác ở Copiapó, Chile, trong hình ảnh video được thả xuống một lỗ khoan trong lòng đất tại khu vực mà các thợ mỏ tìm kiếm sự an toàn sau khi mắc kẹt



Lính thuỷ đánh bộ Mỹ tại điểm tuần tra Beatley ở tỉnh Helmand, Afghanistan



Một người đàn ông đi trên con phố ngập nước tại Nowshera. Nạn lụt làm hàng chục nghìn người phải di dời tại phía tây bắc Pakistan



Hình ảnh cuộc khủng hoảng thế chấp vẫn hiện diện. Đây là những vật dụng còn lại bên ngoài những căn hộ bị tịch thu thế nợ ở Orlando, Mỹ


Theo Time
Đọc thêm!

SINH CẢNH TOÀN CẦU VÀ NHỮNG CON ĐẬP “MADE IN CHINA”

NỬA TỈ NGƯỜI TRÊN HÀNH TINH NÀY


Cách đây 10 năm (11/ 2000) Ủy Hội Đập Thế Giới (WCD / World Commission on Dams), đã cho ấn hành một nghiên cứu rộng rãi trên toàn cầu về ảnh hưởng các con đập lớn và phát triển.
Mười năm sau 2010, Water Alternatives, là một nhóm độc lập gồm các nhà nghiên cứu, các chủ bút (independent academic online journal), đã cùng duyệt xét lại bản khảo sát của WCD, xem các con đập lớn hiện nay ảnh hưởng ra sao trên sinh cảnh môi trường, kinh tế xã hội và đời sống cư dân ven sông – khảo sát này không phải chỉ có thu hẹp trên những nạn nhân trực tiếp trên vùng xây đập bị cưỡng bách tái định cư mà bao gồm cả các cộng đồng dân cư phía hạ nguồn, tại 70 quốc gia nơi 120 con sông trên thế giới.
Theo Brian Richner, người chủ trì cuộc nghiên cứu và cũng là Giám đốc Chương Trình Bảo Tồn Thiên Nhiên ( Nature Conservancy) thì có gần nửa tỉ người (472 triệu) trong số này 85% là cư dân Á Châu sống dưới nguồn phải chịu hậu quả tiêu cực thật đáng ngại từ những con đập lớn do hủy hoại môi trường, phá rừng, làm mất nguồn cá, mất đồng cỏ nuôi gia súc… Điển hình là vùng hạ lưu sông Mekong, nếu không kể đám thị dân, thì đã có hơn 40 triệu người chủ yếu là nông và ngư dân, sống bằng nguồn tài nguyên của con sông với nguồn lúa gạo, nguồn cá mà cá từ sông Mekong là nguồn protein chính của họ.

Như một điệp khúc, ai cũng biết Trung Quốc là quốc gia thượng nguồn của nhiều con sông, chỉ thích nói tới các lợi lộc của các con đập như sản xuất điện, điều hòa lũ lụt và tạo thuận thủy lợi cho nông nghiệp. Nhưng lại hầu như không đề cập tới những hậu quả tiêu cực và ảnh hưởng lâu dài trên sinh cảnh, môi trường và đời sống cư dân dưới nguồn.


Theo cuộc khảo sát của nhóm Water Alternative (June 3, 2010), thì có sự bùng phát xây cất các con đập lớn trên toàn thế giới: từ con số 5,000 con đập năm 1950 nay lên tới 50,000 con đập. Chỉ riêng Brazil, xứ sở của túc cầu đã có tới 1,700 dự án xây đập mới.

Cũng theo Brian Richner, ở một thời kỳ mà cao trào xây đập đã trải rộng trên toàn cầu như vậy, thì chúng ta càng phải khôn ngoan và thận trọng hơn ngay từ bước khởi đầu hình thành dự án cho tới phương thức điều hành các con đập để có thể “giảm thiểu” tác hại của các con đập trên đời sống con người và sinh cảnh”. [12]

Chẳng hạn, làm sao bảo đảm các con đập “phải xả ra đủ nước” để duy trì dòng chảy và bảo tồn sinh cảnh và duy sự sống nơi hạ nguồn.

Nhận xét: điều này chỉ phản ánh lòng mong mỏi không thực tế và cả nghịch lý nữa do “mâu thuẫn quyền lợi” đối với quốc gia và công ty sở hữu các con đập. Ví dụ trong mùa hạn hán vừa qua, khi mà chính những hồ chứa các con đập Vân Nam cũng thiếu nước để vận hành giàn turbines, phải bảo đảm cung cấp đủ điện cho các khu kỹ nghệ đang phát triển rất nhanh ở các tỉnh Tây Nam Trung Quốc, trong tình huống cực đoan ấy mà lại yêu cầu Trung Quốc lấy “từ tâm tự nguyện” xả nước từ các hồ chứa cũng đang thiếu nước chỉ để cứu các khúc sông cạn hạ nguồn “rõ ràng là một yêu cầu không tưởng”.

NHỮNG CON ĐẬP LAN THƯƠNG – MEKONG


Theo dự báo của Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp Quốc (UNEP/ U.N. Environment Program) thì dân số vùng hạ lưu sông Mekong sẽ tăng lên 90 triệu vào năm 2025 với 1/3 sẽ chọn sống ở các khu đô thị [1], còn lại 2/3 cư dân ven sông, chủ yếu là ngư dân và nông dân đã và đang chịu hậu quả trực tiếp và tích lũy những tác hại của các con đập Vân Nam.
Do cơn khát năng lượng để đáp ứng nhu cầu kỹ nghệ phát triển, rõ ràng Trung Quốc thì vẫn cứ ráo riết xây thêm những con đập bậc thềm Vân Nam (Mekong Cascades) với cái giá kinh tế xã hội và môi sinh phải trả của các quốc gia vùng hạ lưu.
Hiện nay 2010, đã có ba con đập (1) Mạn Loan/ Manwan 1,500 MW, (2) Đại Chiếu Sơn/ Daichaosan 1,350 MW, (3) Cảnh Hồng / Jinghong 1,350 MW đã hoạt động toàn công suất, con đập thứ tư (4) Tiểu Loan/ Xiaowan 4,200 MW cao nhất thế giới 292 mét (lớn thứ hai sau con đập Tam Hợp / Three Gorges trên sông Dương Tử), với diện tích hồ chứa hơn 190 km2 và dung tích 15 tỉ mét khối, bắt đầu lấy nước sông Lan Thương – Mekong từ 2009 dự trù phải cần tới 4 năm tới 2012 mới lấy đủ nước vào hồ chứa, nhưng đơn vị phát điện đầu tiên của đập Tiểu Loan đã bắt đầu hoạt động từ 25 tháng 9, 2009. Theo Wang Yongxiang , tổng quản trị Hydrolancang còn có thêm ba con đập nữa đang xây trong chuỗi 14 con đập bậc thềm Vân Nam. [13]
_ Không chỉ xây đập trên suốt nửa chiều dài sông Mekong chảy qua tỉnh Vân Nam, Trung Quốc còn thao túng trong các kế hoạch xây những con đập Hạ lưu trên lãnh thổ Lào như: Pak Beng 1,320 MW, Pak Lay 1,320 MW, Sanakham 1,000 MW và Cam Bốt : Sambor 2,600 MW (lớn hơn con đập Mạn Loan/ Manwan Vân Nam chỉ có 1,500 MW) với tổn phí lên tới 5 tỉ $US.
Hai con đập Sambor và Don Sahong cùng với dự án các con đập Hạ lưu phía bắc sẽ “đe dọa tới 70% sự sống còn của các đoàn “di ngư” từ Cam Bốt. [3]
[Hình I] GMS _ Greater Mekong Subregion
Lưu Vực Lớn Sông Mekong hay Tiểu Vùng Sông Mekong Mở Rộng
Diện tích: 795,000 km2
Chiều dài chính: 4,400 km
Dòng chảy trung bình: 15,000 m3 / sec
[ nguồn: MRC Secretariat 2000 ]

Hội Nghị Thượng Đỉnh Mekong, Hua Hin Thái Lan
Trước sức ép của công luận, của các nhóm hoạt động môi sinh và gay gắt nhất là phong trào dân chúng từ các cộng đồng cư dân hạ lưu phản đối chống Trung Quốc và mạnh mẽ nhất là từ các tỉnh đông bắc Thái – nạn nhân trực tiếp của những khúc sông Mekong khô hạn.
Trước mối đe dọa sông Mekong cạn dòng do chuỗi đập thượng nguồn Vân Nam, bốn quốc gia Đông Nam Á thuộc lưu vực sông Mekong gồm Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đã nhóm họp tại thành phố biển Hua Hin, 200 km phía nam Bangkok, để cùng thảo luận về phương cách khai thác bền vững nguồn tài nguyên sông Mekong. Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva, cho dù đang phải đương đầu với cuộc khủng hoảng chánh trị có thể đưa tới nội chiến, nhưng vẫn đến khai mạc hội nghị thượng đỉnh này với tuyên bố khẳng định:
“Sông Mekong đang bị đe dọa nghiêm trọng vì sự lạm dụng nguồn nước và hậu quả của biến đổi khí hậu. Nếu không có một chính sách khai thác thận trọng và hợp lý các nguồn tài nguyên sông Mekong, con sông hùng vĩ này không thể nào sống còn”.
Cũng để xoa dịu nỗi căm phẫn của cư dân khu vực hạ lưu, Bắc Kinh cử một phái đoàn quan sát do phó Ngoại trưởng Tống Đào / Song Tao tới dự hội nghị. Không là thành viên của Ủy Hội Sông Mekong, không bị một ràng buộc nào ngoài tư cách “tham dự đối thoại”. Như từ bao giờ, Bắc Kinh vẫn khẳng định do tình trạng hạn hán nghiêm trọng mới là nguyên nhân đưa tới con sông Mekong cạn dòng – và cũng khá trớ trêu là phân tích của chính Ủy Hội Sông Mekong / MRC cũng hậu thuẫn cho luận điểm đó của Trung Quốc. [4] Và đó là lý do tại sao các nhà hoạt động môi sinh đã lên án Ủy Hội Sông Mekong thất bại trong việc bảo vệ dòng sông Mekong. [5]
Trước sức ép của công luận, Bắc Kinh bắt đầu chịu chia xẻ một phần dữ kiện thủy văn liên quan tới hai con đập Vân Nam. Cũng nên ghi lại ở đây cái cảnh tiếp đón khá bẽ bàng mà Trung Quốc đã dành cho phái đoàn 4 nước thuộc Ủy Hội Sông Mekong qua ghi nhận của Boonchai Ngamvitrot, Giám đốc phòng Nghiên cứu Thủy văn của Thái Lan:
“Ngày đầu đoàn đến thăm Đập Cảnh Hồng, đến đập quan sát khoảng 1 tiếng, phía Trung Quốc cho phép chụp hình. Ngày thứ hai, đoàn đi thăm Đập Tiểu Loan, quan sát khoảng 1 tiếng nhưng tại đây họ không cho chụp hình. Tiếp đoàn chỉ có 5 hay 6 cán bộ công ty thủy điện, không có cấp đại diện chánh phủ hay bộ Thủy lợi Trung Quốc đi cùng. Chúng tôi nói chuyện rất ít, hầu như chỉ đi xem là chính”. [15]
Nếu gọi đó là chuyến đi quan sát thực địa / fact-finding, thì chỉ với vỏn vẹn 2 giờ đồng hồ đó, phái đoàn 4 nước đã thu thập được những thông tin gì nơi 2 con đập ấy ?
Ngoài chiến dịch tình cảm rất hời hợt ấy, trước sau Trung Quốc vẫn khăng khăng từ chối trách nhiệm về tình trạng cạn dòng của con sông Mekong trong thời gian vừa qua. [2] Với những lý lẽ, vẫn là sự lặp lại, không có gì mới và không thuyết phục, đó là:
  1. Theo phái đoàn Trung Quốc thì chỉ có 13.5% lưu lượng sông Mekong đổ xuống từ khúc sông Lan Thương / thượng nguồn, so với lưu lượng trung bình hàng năm sông Mekong đổ ra Biển Đông, nên các con đập Vân Nam không có ảnh hưởng đáng kể tới hạ nguồn; không những thế các hồ chứa còn có tác dụng tích cực là điều hòa dòng chảy, ngăn ngừa lũ lụt và cải thiện dẫn thủy tiêu tưới cho nông nghiệp.
    Nhận xét: nhưng theo Milton Osborne, chuyên gia uy tín về Đông Nam Á và là tác giả những cuốn sách nghiên cứu về Sông Mekong (như : The Mekong: Turbulent Past, Uncertain Future; River Road to China: The Search for the Source of the Mekong) thì trong Mùa Khô, lưu lượng nước sông Lan Thương ( tên Trung Quốc của sông Mekong) ở một số nơi, chiếm tới 40% lượng nước sông Mekong , gấp 3 lần con số Trung Quốc đưa ra là 13.5%. [11]
  2. Phái đoàn Trung Quốc cho rằng không phải chỉ có các quốc gia hạ lưu chịu cảnh con sông Mekong cạn dòng, mà chính hàng triệu cư dân các tỉnh Tây Nam Trung Quốc cũng bị thiếu nước và hạn hán nghiêm trọng trong thời gian vừa qua.
    Nhận xét: do thay đổi khí hậu, đã thiếu mưa, hạn hán, khi mà mực nước hồ chứa các con đập xuống thấp tới gần “mực nước chết”và để duy trì mức sản xuất điện cho các khu kỹ nghệ… thì 40% nguồn nước trong mùa khô bị giữ lại trong các con đập Vân Nam, thì hậu quả thiếu nước và cạn dòng dưới nguồn trầm trọng hơn là thế nào.
  3. Cũng phái đoàn Trung Quốc đã phủ nhận tiếng nói báo động của các nhóm hoạt động môi sinh, và lên án những “lượng giá của họ về tác hại của các con đập Vân Nam là hoàn toàn không có cơ sở / groundless” vì Mekong cạn dòng là do “thiếu mưa / low rainfall” chứ không vì nguyên nhân nào khác.
    Nhận xét: đã thiếu mưa trên toàn lưu vực từ thượng xuống hạ nguồn, trong suốt mùa khô, trông chờ nước do nguồn tuyết tan từ cao nguyên Tây Tạng để duy trì dòng chảy thiên nhiên vốn có từ ngàn năm của con sông Mekong thì nay nguồn nước ấy bị giữ lại trong hồ chứa khổng lồ của các con đập Vân Nam và cảnh “thượng nguồn tích thủy, hạ nguồn khan” tưởng là hiển nhiên vậy mà vẫn bị Trung Quốc phủ nhận. [11]
Nói gì đi nữa thì cho đến nay Trung Quốc vẫn cương quyết từ chối gia nhập Ủy Hội Sông Mekong để không bị ràng buộc bởi bất cứ quyết định nào của tổ chức này. Dưới mắt cư dân hạ nguồn thì Trung Quốc là một khuôn mặt “bất nhẫn” hay nói theo ngôn từ ngoại giao nhẹ nhàng hơn thì Bắc Kinh hoàn toàn “vô cảm” với những khó khăn của các quốc gia ven sông nơi lưu vực dưới sông Mekong. 

NHỮNG CON ĐẬP Á CHÂU

Trên Sông Irrawaddy:
Trung Quốc đã khởi công xây con đập thủy điện lớn nhất Miến Điện, Myitsone 3,600 MW trên sông Irrawaddy từ cuối năm 2007. Vị trí con đập nằm ngay trên hợp lưu của hai nhánh sông, cách Myitsone thủ phủ của bang Kachin 42 km về hướng bắc.
Theo tờ báo của nhà nước Miến Điện, The New Light of Myanmar, từ tháng 5 năm 2007 Miến Điện đã hoàn tất phác thảo 7 dự án thủy điện trên sông Irrawaddy với tổng công suất lên tới 13,360 MW, do một ký kết giữa Công Ty Đầu Tư Điện Lực Trung Quốc (CPI / China Power Investment Corporation) và Bộ Điện Lực Miến Điện.
Nhưng theo Tổ Chức Môi Sinh Kachin có trụ sở ở Chiang Mai Thái Lan, thì tình trạng đàn áp nhân quyền cư dân địa phương trên luôn luôn diễn ra trên vùng xây đập. Di sản thiên nhiên và văn hóa của sắc tộc Kachin đang bị hủy hoại, với hơn 40 ngôi làng quanh vùng xây đập sẽ hoàn toàn bị ngập lụt và hơn 10 ngàn cư dân thì bị mất hết nhà cửa và bị cưỡng bách phải di dời. Chưa kể đến trường hợp nếu con đập bị xập do động đất sẽ gây thảm họa cho hàng triệu cư dân nơi hạ nguồn. ( Bắc Miến là vùng động đất đang hoạt động / seismically active zone giống như Vân Nam) [9]
Mới đây 6/ 2010, khi Thủ Tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tới thăm giới lãnh đạo quân phiệt Miến Điện để thảo luận về “các vấn đề năng lượng” cũng có nghĩa là hai nước sẽ phải đẩy mạnh kế hoạch xây các con đập thủy điện trên lãnh thổ Miến. Đập Myitsone trên sông Irrawaddy chỉ là một trong 9 dự án án và ngoài Công Ty Đầu Tư Điện Lực Trung Quốc CPI thì nay có thêm một công ty xây đập lớn khác của Trung Quốc CDT (China Datang Corporation), tham dự vào.
Cho dù gặp sự chống đối mạnh mẽ của sắc dân Kachin, điển hình là đã xảy ra các vụ nổ bom (17/04/2010) nơi công trình xây đập khiến 4 công nhân xây đập Trung Quốc chết và nhiều người khác bị thương, thì ngay sau đó dân Kachin bị quân đội bắt bớ, tra tấn và đàn áp dữ dội hơn. Kế hoạch cưỡng bách tái định cư / forcibly relocated và tiến độ xây đập vẫn không hề bị chậm lại. [10]
Cũng dễ hiểu tại sao Trung Quốc vẫn chuộng ký kết hợp đồng làm ăn với các thể chế độc tài, nhân danh ổn định chánh trị bằng đàn áp.
Trên Cao Nguyên Tây Tạng:
Xứ tuyết Tây Tạng là vùng đất cao từ 3,500 tới 5,000 mét, được mệnh danh là “nóc của trái đất”, các con sông lớn như mạch sống cho toàn vùng Châu Á đều bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng. Phía đông ngoài hai con sông lớn Hoàng Hà và Dương Tử hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, còn phải kể tới ba con sông khác: Mekong, Irrawaddy và Salween. Phía tây và tây nam là các con sông: Indus, Sutlej và Yarlung Zangpo – Yarlung Zangpo còn được mệnh danh là “con sông cao nhất thế giới”.
Bắc Kinh đã xác nhận với Ấn Độ là, Hoa Lục sẽ xây con đập đầu tiên trên con sông Yarlung Zangbo – Brahmaputra, vốn là một con sông lớn, chảy xuyên qua rặng Hy Mã Lạp Sơn, đổ xuống một đại vực (grand canyon) lớn và sâu nhất, trước khi chảy sang Ấn Độ. Đây là dòng sông huyết mạch của bao nhiêu triệu cư dân Ấn.
Các chuyên gia Hoa Lục còn cho họ biết sẽ xây thêm 4 con đập nữa trong vùng thung lũng giữa hai quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất của những con đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. [6]
Nguồn năng lượng mới này tương đương với 100 triệu tấn than đá, hoặc bằng toàn trữ lượng dầu khí trên Biển Đông / it could generate energy equivalent to all the oil and gas in the South China sea. [14]
Ai cũng biết Biển Đông đang là “vùng tranh chấp nóng” giữa Trung Quốc, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á.
Ấn Độ đã bày tỏ mối quan tâm về những con đập sắp tới của Trung Quốc, sẽ có ảnh hưởng hủy hoại sinh cảnh vốn đã mong manh của vùng Hy Mã Lạp Sơn và nhất là tác động trực tiếp trên lưu lượng con sông Brahmaputra, là nguồn cung cấp nước cho các vùng nông nghiệp và kỹ nghệ các tỉnh Đông Bắc Ấn Độ. Nỗi lo ngại của Ấn càng gia tăng khi nhận thức được rằng qua các con đập, Bắc Kinh sẽ hoàn toàn kiểm soát nguồn nước cung cấp cho vùng đất 90,000 km2 đang trong vòng tranh chấp biên giới giữa hai nước.
[ Tưởng cũng nên nhắc lại là trong quá khứ đã xảy một cuộc Chiến tranh Biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ (Sino-Indian War) vào tháng 10 năm 1962, trên cao độ hơn 4,000 mét, sau đó tuy ngưng bắn nhưng tình hình vẫn căng thẳng và vấn đề biên giới giữa hai nước chưa được giải quyết. Nay nhìn lại, người ta không thể không liên hệ yếu tố chánh trị phía sau cuộc chiến này: sự vùng dậy của nhân dân Tây Tạng bị Trung Quốc thẳng tay đàn áp (1959) và sau đó Tân Đề Ly đón nhận Đức Đạt Lai Đạt Ma vào Ấn Độ tỵ nạn đã gây cho Bắc Kinh không ít giận dữ ].
Cũng như với các con đập thượng nguồn Sông Mekong, lập luận của Trung Quốc bao giờ cũng là tiếng nói “phủ nhận” ảnh hưởng của chuỗi đập trên cao nguyên Tây Tạng đối với nguồn nước của Ấn Độ.
Bằng một giọng khá trịch thượng và cả thách thức với một cường quốc láng giềng có cả vũ khí nguyên tử là Ấn Độ, giới chức Bắc Kinh cho rằng họ không có ràng buộc nào để phải công khai hóa kế hoạch của họ với Tân Đề Li, nhưng họ đã làm như vậy để tạo sự tin cậy và giảm thiểu căng thẳng giữa hai quốc gia. [Sic]
Yan Zhiyong, tổng giám đốc Nhóm Tham vấn Thủy điện Trung Quốc (China Hydropower Engineering Consulting Group) nhận định : “Tây Tạng là nguồn dự trữ thủy điện lớn nhất so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Chuyển điện điện từ Tây Tạng sang các tỉnh miền Đông sẽ giải quyết vấn đề thiếu năng lượng đáng kể của Trung Quốc”.
Anant Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp của Ấn Độ cho rằng kế hoạch xây đập tràn lan của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung Quốc nhưng chắc chắn sẽ ảnh hưởng tác hại mối quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta cũng không quên so sánh :
Ấn Độ bị báo động vì những con đập trên sông Yarlung Zangbo- Brahmaputra, cũng giống như với các quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đối với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn sông Langcang – Mekong”. [6] 

NHỮNG CON ĐẬP TRÊN LỤC ĐỊA PHI CHÂU:


Theo báo Economist, Châu Phi là một lục địa ít xây đập nhất. Cũng là lục địa thiếu nước và thiếu điện nhất. Đó là vùng đất hứa để xây thêm những con đập và Trung Quốc là quốc gia bỏ tiền xây nhiều con đập mới ở Phi Châu, nhưng hiệu năng của những con đập ấy thường dưới xa mức dự tính do khí hậu thất thường, tiên đoán thủy văn không chính xác cộng thêm với tham nhũng về chính trị nên Châu Phi không phải là “đắc địa” để Trung Quốc vội vã đầu tư thêm vàokỹ nghệ xây đập [7], ngoài những kế hoạch đang sinh lợi khác như thuê đất, phá rừng lấy gỗ và chuyên trở các nguồn tài nguyên từ Phi Châu về Trung Quốc.

XÂY ĐẬP TOÀN CẦU: TRUNG QUỐC VÀ NHÂN QUYỀN


Phân nửa những con đập lớn trên hành tinh này là nằm trong lãnh thổ Trung Quốc và Bắc Kinh cũng là chủ nhân các đại công ty xây đập lớn nhất thế giới.
Chỉ mấy thập niên trước đây thôi, Trung Quốc còn cần yểm trợ kỹ thuật của các công ty xây đập Tây Phương, như với tập đoàn đa quốc gia EHDC (Ertan Hydroelectric Development Corporation) khi thực hiện dự án đập Tam Hợp (Three Gorges projects). Nhưng cũng lúc đó, Trung Quốc có ngay chiến lược làm ăn với các công ty ngoại quốc, họ đặt ra yêu cầu các công ty này phải chấp nhận cho sản xuất phân nửa những giàn turbines và các nhà máy phát điện ngay tại Trung Quốc với sự tham gia của các kỹ sư thủy điện và công nhân kỹ thuật Trung Quốc. Một hình thức thu hút kỹ thuật cao của Tây Phương vào Trung Quốc trong một thời gian ngắn với gía rẻ.
Trước mối lợi nhuận hàng tỉ Mỹ kim, các đại công ty Tây Phương như ABB, Alstom, General Electric and Siemens đã chấp nhận giải pháp này cũng có nghĩa đồng ý chuyển giao quy trình công nghệ xây đập cho Trung Quốc. Và các nhóm kỹ sư trẻ Trung Quốc đã không bỏ lỡ cơ hội, rất mau chóng học hỏi và làm chủ các khâu kỹ thuật xây đập của ngoại quốc và rồi không lâu sau đó, Trung Quốc đã có thể tự chế tạo và sản xuất mọi trang bị cho kỹ nghệ xây đập ngay tại Hoa Lục.
Để rồi ngày nay, Trung Quốc vượt qua các bậc thầy, thống lĩnh thị trường xây đập toàn cầu, nhận xây 19 trong số 24 dự án đập lớn nhất thế giới. Không có con số chính xác, nhưng có thể nói rằng không ít các giàn turbines và trang thiết bị xây các con đập lớn nhỏ ở Việt Nam hiện nay đều mang thương hiệu Made in China, điều phỏng đoán ấy chắc không sai.
Nhưng ngoài vấn đề Hoa Lục làm chủ được kỹ thuật xây đập, nhiều người đã tự hỏi bằng cách nào Trung Quốc đạt được những thành tựu “xuất cảng kỹ nghệ xây đập” nhanh như vậy sang nhiều quốc gia khác ?
Giám đốc chánh trị Mạng Lưới Sông Thế giới (IRN/ International River Network), Peter Bosshard đã tìm được lời giải đáp. Đó là, trong khi các đối tác Tây phương tuy có nhiều kinh nghiệm và kỹ thuật cao hơn nhưng cũng vì biết quan tâm nhiều hơn tới ảnh hưởng môi trường và tác động xã hội của từng con đập nói chung vì “tôn trọng nhân quyền” họ đã rất “dè dặt và bảo thủ” , trong khi đó phía Trung Quốc không có cùng mức độ quan tâm như vậy và Bắc Kinh chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội sinh lợi, cứ thế nhận đấu thầu và tiến tới cho dù không đáp ứng được những tiêu chuẩn môi sinh quốc tế. [8]
Nhưng rồi ra, trước công luận thế giới, Trung Quốc không thể nói là hoàn toàn vô can trước tác hại của những con đập nơi các quốc gia mà Trung Quốc trực tiếp đầu tư vào. Điển hình là những gì tệ hại đang diễn ra trong Lưu Vực Lớn Sông Mekong (GMS/ Greater Mekong Subregion); và báo chí đã đưa ra một ví von rất gợi hình là Trung Quốc đang liều lĩnh bước đi trên trên những tảng băng mỏng / China walks on thin ice. Một hình ảnh nước lớn Trung Quốc chắc chắn sẽ xấu xí hơn nếu cứ tiếp tục với những công trình xây dựng thiếu bền vững như vậy trên khắp hành tinh này.
Trung Quốc đã chia rẽ, khống chế được các nước nhỏ Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, nhưng khi Bắc Kinh hành xử ngang ngược chặn nguồn nước một nước láng giềng lớn như Ấn Độ, liệu có dễ dàng như vậy không hay là bắt đầu “châm ngòi” cho một cuộc “chiến tranh vì nước”.
NGÔ THẾ VINH
Đọc thêm!

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Thay đổi hệ thống giáo dục

Tác giả: Phạm Toàn

Đố bạn biết: có bao nhiêu luật chính tả ghi ngữ âm tiếng Việt? 


Câu hỏi này gây lúng túng cho không ít người. Nhiều người bị hỏi nhưng chẳng trả lời. Nhiều người không biết. Nhiều người không để ý. Nhiều người ngờ ngợ, không dám nói. Lâu nay mấy ai để ý chuyện "vặt vãnh" đó!

Việc ghi âm tiếng Việt chỉ tuân thủ có 1 luật chính tả và 3 ngoại lệ thôi. Đơn giản quá chăng?

Với các ngôn ngữ có biến hóa hình thái thì hễ thay nghĩa là thay cả cách ghi. Nó bắt buộc người học phải đạt tới một trình độ cú pháp nào đó thì mới viết đúng chỉnh tả. Bao lâu thì học xong cú pháp, khi chính người Pháp vẫn nói vui rằng "các ngoại lệ cú pháp tạo thành một điều luật"?!

Học sinh nói ngôn ngữ Ấn-Âu cần học ít nhất 5 năm mới tạm "sạch" về chính tả. Người học tiếng Trung Hoa tuy chỉ cần học thuộc lòng mặt chữ là được, thế nhưng học bao lâu để nhớ và nhớ bao nhiêu nghìn chữ là đủ? Học tiếng Nhật Bản còn khó hơn nữa: người Nhật Bản đã vào đời lúc nào cũng kè kè cuốn từ điển để tra cứu cách ghi chính tiếng mẹ đẻ của mình!

Ấy thế mà tiếng Việt lại chỉ có một luật chính tả và ba ngoại lệ!


Đây là luật duy nhất bao trùm tất cả: nghe thế nào, phát ra thế nào, ghi như thế. Một người Nam bộ phát âm chuẩn

[tổ] [quốc] sẽ ghi đúng là tổ quốc, 

còn một người phát âm sai thành

[tổ] [guốc] vẫn cứ có quyền ghi là tổ guốc.

Một người Bắc bộ phát âm chuẩn

[hà] [nội] sẽ ghi đúng là Hà Nội, 

còn một người phát âm sai

[hà] [lội] vẫn cứ có quyền ghi là Hà Lội.

Còn khi học ở nhà trường, khi chúng ta yêu cầu và rèn luyện cho cả giáo viên lẫn học sinh phát âm đúng [tổ] [quốc] và [hà] [nội], thì mọi người đều nói đúng và ghi đúng – đơn giản vậy thôi.

Ngoài điều luật ấy, tạm đặt tên là luật ngữ âm hoặc luật ghi theo ngữ âm, cách ghi tiếng Việt còn có ba ngoại lệ.

Ngoại lệ thứ nhất: âm [k] đứng trước [e], [ê] và [i] thì ghi bằng con chữ thành ke, kê, ki. Ngoại lệ thứ nhất này được áp dụng mở rộng sang ghe, ghê, ghi  nghe, nghê, nghi. Mở rộng ngoại lệ ghi âm [k] này sang tiếng có phần vần có âm đệm như [wa], [we], [wê], [wơ], [wy] thì được ghi bằng con chữ và âm đệm [w] ghi bằng con chữ u và ta có qua, que, quê, quơ, quy. Dĩ nhiên, mở rộng ra, ta cũng sẽ có quan, quang, quăn, quanh … vì đều là trường hợp âm đầu [k] đứng trước vần có âm đệm [wan], [wang], [wăn], [wanh], …  Ngoại lệ này chỉ cần dặn dò người học, và sau vài ba lần áp dụng tất cả học sinh lớp Một đều thành thạo.

Ngoại lệ thứ hai: âm [z] tùy theo nghĩa của từ mà có khi ghi bằng chữ như trong da thịt, khi ghi bằng chữ như trong đi ra đi vô, khi ghi bằng chữ gi như trong gia tộc, giá trị. Đây là sự phân biệt rất tinh tế của các nhà ngữ âm học (các cụ đạo) khi lần đầu tiên các vị đó ghi âm tiếng Việt cho chúng ta dùng như ngày nay. Đối xử với ngoại lệ ghi âm này như sau: người lớn khi ngờ ngợ cách ghi tiếng có âm [z] thì tra từ điển, trẻ em cũng có quyền tra từ điển, và ở lớp học, cuốn "từ điển sống" sẵn đó chính là giáo viên. Khi viết đến tiếng có âm [z], ta cho trẻ em quyền hỏi giáo viên cách ghi. Đơn giản vậy thôi.

Ngoại lệ thứ ba cũng liên quan đến luật ghi theo ngữ âm, nhưng đây là ghi nguyên âm đôi [iê], [uô], [ươ]. Khi nào tiếng có âm cuối khép lại thì ghi bằng iê, uô  ươ, thí dụ: Điện Biên, luống cuống, tưởng tượng. Trái lại, nếu tiếng không có âm cuối, thì ghi bằng ia, ua, ưa, thí dụ: bia đá, vua chúa, lưa thưa… 

Ta nên sử dụng ưu thế học tiếng Việt đó như thế nào? 

Trước hết, cần biết cách tổ chức cho trẻ em tự phân tích ngữ âm và tự ghi âm tiếng Việt ngay từ lớp Một theo phương pháp Công nghệ Giáo dục. Theo cách này, chỉ cần từ 5 đến 7 tháng là các em đọc thông viết thạo chắc chắn.

Nếu ta tiếp tục tổ chức lại việc học tiếng Việt ở các lớp trên, cũng theo phương pháp Công nghệ Giáo dục, chắc chắn ta sẽ rút ngắn được thời gian học tiếng Việt, và như vậy cũng có thể rút ngắn được thời gian học ở trường phổ thông nói chung. Lập luận một cách đơn giản: trẻ em Việt Nam học tiếng Việt dễ hơn trẻ em các nước học tiếng nước họ nhiều lần; vậy thì, hà cớ gì ta vẫn cần một hệ phổ thông kéo dài những mười hai năm như của họ?

Nhưng, việc thay đổi hệ thống mà chỉ dựa trên lập luận về tiếng Việt như là một điều thuận lợi Trời cho người Việt Nam so với tất cả các dân tộc khác, thì đó mới chỉ là một lý lẽ. Chúng ta còn cần thay đổi hệ thống giáo dục vì bản thân nó và theo cách thức phù hợp với chính nó. 

Bản thân nền giáo dục cần phải phục vụ bằng được công cuộc hiện đại hóa của Việt Nam. Rút ngắn hai năm để từ mười hai năm chỉ còn mười năm là một cách tiết kiệm thời gian, cũng chính là một tiêu chuẩn của hiện đại hóa. Thế nhưng, trong mười năm còn lại đó, còn phải thay đổi cách dạy và cách học, sao cho học ít đi song chất lượng lại cao lên nhiều nữa, sao cho năng lượng chi phí bớt đi nhưng cả người dạy và người học đều giỏi lên nhiều nữa, đó mới là yêu cầu nữa của hiện đại hóa. Và đó cũng là nội dung của thay đổi hệ thống. 

Hệ thống mới trước hết phải có một bậc học làm nền tảng, bậc giáo dục phổ thông cơ sở bắt buộc cho toàn dân. Bậc học đó trong hệ thống mới nên là sáu năm. Trải qua sáu năm đầu đời sống nhà trường, một thiếu niên Việt Nam phải học được phương pháp học rồi sẽ dùng cả đời. Ta sẽ gọi nhiệm vụ của bậc học cơ sở này là bậc chiếm lĩnh phương pháp. Cái "phương pháp" ở đây không phải là "cách dạy" của giáo viên; phương pháp chính là nguyên lý tồn tại của cái nội dung học.

Bậc phổ thông cơ sở này khác với bậc tiểu học xưa. Mục tiêu của bậc tiểu học xưa cao thấp gì thì cũng chỉ là "ba R": đọc (Reading), viết (Writing), tính toán (Arithmetic). Bậc phổ thông cơ sở sẽ phải đem đến cho thiếu niên một hành trang vào đời khác hẳn: một lối sống có lý tưởng, một tư duy lô-gich, một ngữ pháp nghệ thuật, một kỹ năng hoạt động ngôn ngữ hiện đại, một năng lực ngoại ngữ để hội nhập được với nền văn minh đương thời, một phương pháp khảo sát và nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên và xã hội.

Cái năng lực cơ bản được tạo ra ở bậc phổ thông cơ sở đó sẽ giúp người thiếu niên học lên bậc cao hơn theo các định hướng khác nhau: lên bậc phổ thông hướng nghiệp và lên bậc phổ thông chuyên khoa. Ở hai bậc học này, người học sẽ có cách học tập khác hẳn: một cách học hành dụng để đi vào trường dạy nghề, và một cách học nghiên cứu để đi vào bậc đại học.

Một sơ đồ diễn tả như sau tạm tóm tắt những điều đề xuất xoay quanh việc thay đổi hệ thống trong cuộc Cải cách giáo dục sắp diễn ra – một cuộc cải cách đích thực thay vì một cuộc chữa sách giáo khoa qua loa, tàm tạm (*). 





_________________


(*) Trong buổi trình bày tại Ban Tuyên Giáo Trung Ương (ĐCSVN) sáng thứ tư 20-01-2010, sau khi hoan nghênh tư tưởng của báo cáo (trong đó có ý tưởng thay đổi hệ thống náy), giáo sư Hoàng Tụy góp ý kiến là: không nên rút ngắn bậc giáo dục phổ thông, riêng bậc Phổ thông cơ sở nên là 10 năm thay vì 6 năm. Nhà nghiên cứu Trần Việt Phương nói: có thể chọn phương án ở giữa Bậc phổ thông cơ sở 8 năm; vấn đề là thống nhất về ý tưởng của việc thay đổi hệ thống như được trích ra trình bày ở bài báo này. (Tác giả thêm trong lần xuất bản này)

Hà Nội, những ngày sắp sang năm 2010 

Nguồn: Vietnamnet, ngày 01-02-2010.
.
Đọc thêm!