Trang

Chủ Nhật, 6 tháng 2, 2011

J-20: “Đại bàng đen” hay cu li hóa thạch ?

Sự tụt hậu của Trung Quốc trong lĩnh vực chế tạo tiêm kích thế hệ 5 không phải là 1 năm mà là 12-15 năm. J-20 mà Trung Quốc làm ra một lần nữa lại là nhờ đồ cóp nhặt của người khác 

Trước đây, thỉnh thoảng, người ta đã bàn tán ầm ĩ xung quanh việc phát triển tiêm kích thế hệ 5 của Trung Quốc. 

Không lâu trước năm mới 2011, câu chuyện lại tiếp diễn. Xuất hiện những bức ảnh đầu tiên của máy bay này và chúng không bị coi sản phẩm đồ họa máy tính do những thành viên tích cực của các diễn đàn internet Trung Quốc làm ra. 

Sau đó, xuất hiện cả các đoạn video quay cảnh máy bay chạy đà trên đường băng. 

Ngày 11.1.2011, Trung Quốc lại lan truyền đoạn video quay chuyến bay đầu của máy bay mà Trung Quốc gọi là J-20 “Đại bàng đen”. Trước đó, nó còn có cái tên khủng bố hơn là  Mãnh long. Lúc này, khi mà Trung Quốc đã đưa máy bay ra phô diễn, thì ta cũng có cái mà bình phẩm cụ thể.

Bài báo này có thể làm thất vọng lớn những người Nga vốn vẫn hay nghĩ về Trung Quốc như một quốc gia trẻ, thông minh và triển vọng, với những bước đi 7 dặm trong lĩnh vực quân sự đang đuổi kịp tất cả và sắp bắt kịp, sẽ vượt qua và thậm chí sẽ chinh phục tất cả. Thậm chí, có người còn sẵn lòng đồng ý là người Trung Quốc đã giảm sự tụt hậu với Nga trong lĩnh vực máy bay tiêm kích thế hệ 5 chỉ còn 1 năm. Bởi lẽ, Т-50 đã cất cánh 1 năm trước. 

Không, không hề có sự kỳ diệu nào cả, không hề ra đời đối thủ cạnh tranh nào của Т-50 hay F-22A nào cả. Và sự tụt hậu của Trung Quốc trong lĩnh vực chế tạo tiêm kích thế hệ 5 không phải là 1 năm mà là 12-15 năm. Và máy bay do Trung Quốc làm ra một lần nữa là nhờ đồ cóp nhặt của người khác.

Nguồn gốc Nga
Một trong những phương án đã được nêu ra là máy bay Trung Quốc được phát triển dựa trên cơ sở tiêm kích thử nghiệm xa xưa MiG 1.44, có sử dụng cả những kết quả nghiên cứu của Nga, lẫn những gì mà Trung Quốc tích lũy được trong dự án tiêm kích sản xuất loạt thế hệ 4 J-10. Bản thân J-10 cũng được chế tạo dựa trên tài liệu thiết kế kỹ thuật của máy bay Lavi của Israel và có sự trợ giúp của các chuyên gia Nga. Với J-20 cũng vậy. Nên chúng ta thấy máy bay này rõ ràng có những đường nét giống với MiG 1.44.
 


MiG-1.44
MiG 1.44 là “mẫu trình diễn công nghệ” máy bay tiêm kích tương lai. Máy bay này được chế tạo theo nhiệm vụ kỹ thuật được đặt ra từ đầu thập niên 1980 đối với tiêm kích mới I-90. Các công trình sư của Viện thiết kế MiG hồi đó đã đi theo con đường chế tạo máy bay đánh chặn tầm xa hạng nặng.
 
Hồi đó, Viện thiết kế Sukhoi cũng chế tạo tiêm kích thử nghiệm S-37 Berkut, với cánh hình mũi tên ngược. Berkut cất cánh năm 1997, trải qua thử nghiệm, trong quá trình đó máy bay đã vấp phải hàng loạt vấn đề, kết quả là dự án này đã bị đình chỉ để chuyển sang thực hiện dự án hệ thống máy bay chiến thuật tương lai PAK FA, mà sau này chính là Т-50.


Tuy vậy, S-37 đến nay vẫn bay, trên máy bay này người ta đang thử nghiệm các giải pháp cho Т-50. Còn máy bay MiG 1.44 chỉ cất cánh năm 2000, mặc dù đã được lắp ráp sớm hơn đáng kể. Nhưng sau khi hoàn thành một số chuyến bay, dự án đã bị đóng lại, để chuyển sang Т-50. Và thực tế cho thấy, đó là quyết định đúng đắn. 



Vấn đề là ở chỗ, các công nghệ được sử dụng ở MiG 1.44 đã lạc hậu, ở trình độ những năm 1980. Nỗ lực giải quyết các nhiệm vụ trong tương lai bằng các công nghệ lỗi thời đã dẫn đến sự ra đời của một máy bay mà dù là không lạc hậu so với các đối thủ Mỹ, nhưng cũng không có tiềm năng giành ưu thế và tiếp tục phát triển. Các động cơ nặng và to, kích thước và trọng lượng lớn, các bộ dẫn động thủy lực và dẫn động điện, sơ đồ khí động không phải thành công nhất, những kích thước lớn gây ra vấn đề về khả năng tàng hình, trọng lượng lớn gây ra khó khăn trong việc đạt các chế độ siêu cơ động. Tuy vậy, ở 1.44 cũng có cũng có những giải pháp nhất định thành công. Và chúng đã được ứng dụng khi phát triển Т-50.

Thế nhưng MiG-1.44 lại được người Trung Quốc quan tâm. Rõ ràng là họ không được xem gần một mẫu máy bay tiên tiến nào khác ngoài 1.44 đã là vô dụng. Bản thân Т-50 vẫn còn tồn tại trên các bản vẽ và được bảo mật. Còn với Berkut thì Nga còn chưa xử lý nổi một số vấn đề nữa là người Trung Quốc. Có tin, cuối cùng thì Nga đã bán cho Trung Quốc tài liệu thiết kế MiG-1.44. Trung Quốc đã thực hiện nó và với trình độ hiểu biết của họ, đã cố gắng cập nhật hóa các giải pháp của thập niên 1980 để thích nghi với hiện tại và với khả năng của công nghiệp hàng không Trung Quốc. Kết quả thu được thật tồi tệ.

Cắt dán lung tung
 
J-20
J-20 là một máy bay tiêm kích lớn (dài 21-23 m) và nặng (trọng lượng cất cánh 35-40 tấn), có sơ đồ kiểu “vịt”. Cánh nâng hình tam giác với các gờ nổi ở gốc cánh và có cánh ngang phía trước quay toàn phần. Cánh đứng đuôi kép, quay toàn phần nghiêng ra ngoài và có các tấm đứng dưới thân. Sơ đồ J-20 giống hệt 1.44 và kích thước cũng gần như thế. Nhưng cũng có những khác biệt chi tiết. Máy bay MiG có cánh diện tích lớn, bảo đảm tải trọng riêng nhỏ hơn lên cánh và khả năng cơ động tốt hơn. Các cánh đứng đuôi của máy bay Trung Quốc ngả ra ngoài, không giống với máy bay Nga. Nhưng những nét đó cũng đã có ở các thiết kế mà hãng MiG đã kiểm nghiệm sau thất bại với dự án 1.44, cụ thể là ở thiết kế 1.46. Kết cấu các gờ nổi của gốc cánh, cũng như hình dáng các cánh đứng đuôi và cánh ngang phía trước có vẻ là do Trung Quốc thiết kế. Phần mũi xem ra chép lại từ F-22A của Mỹ. 

Các bộ hút khí rõ ràng là nhái của F-35 lận đận. Vòm kính buồng lái làm theo thiết kế không không tiên tiến và sao chép của Mỹ. Kết quả là có được một máy bay rất xấu được cắt dán, chắp nối từ các giải pháp của các thế hệ, các quốc gia và các trường phái thiết kế khác nhau. Tóm lại, “con quỷ bay” này là “cơ thể” Nga được khâu thêm “cái mõm” Mỹ. Hơn nữa, họ lại khâu bằng chỉ Trung Quốc và bằng kim làm từ kim loại Tàu thật. Với đủ hậu quả từ đó mà ra.

Và hậu quả nhãn tiền

Cùng với sơ đồ khí động của loại máy bay không may mắn 1.44, J-20 cũng ôm lấy những vấn đề của nó mà người Trung Quốc sẽ buộc phải tự mình giải quyết. Sơ đồ khí động với cánh ngang phía trước đối với một máy bay muốn có khả năng tàng hình là sai lầm ngay từ đầu. Cánh ngang phía trước bản thân nó đã gây khó khăn cho vấn đề tàng hình, hơn nữa lại tăng thêm lực cản không khí và làm giảm tầm bay. 

Việc sử dụng các cánh đứng dưới thân chỉ có thể làm các đài radar đối phương vui mừng vì chúng cũng làm tăng độ bộc lộ radar của máy bay. 

Đặc biệt buồn cười là một máy bay hạng nặng sẽ có vai trò lực lượng đột kích chủ yếu của không quân lại sử dụng các bộ hút khí sao chép từ F-35 tốc độ chậm, loại máy bay không hề được thiết kế cho tốc độ bay siêu âm cao. Tuy kích thước của các bộ hút khí cho phép lắp các động cơ mạnh hơn, nhưng hình dáng của nó đơn giản là không cho phép J-20 đạt tốc độ cao quá 1,6M. Có lẽ, tốc độ tối đa của nó sẽ không quá 1,5М ở độ cao lớn, tức là chỉ 1.600 km/h. Bên cạnh đó, họ cũng phải quên đi tốc độ hành trình siêu âm vì máy bay này dù là với các động cơ mạnh hơn cũng sẽ không thể tăng tốc quá tốc độ âm thanh ở chế độ không tăng lực. Có cảm tưởng là Trung Quốc cứ nhắm mắt sao chép tứ lung tung vì nghĩ rằng, cái gì có ở các đối thủ thì cái đó là tốt và cần làm y xì như thế.

Hệ thống thủy lực của máy bay, căn cứ các bức ảnh, thì không được thiết kế cho các áp lực cao, như được làm ở các tiêm kích thế hệ 5 thực sự là Т-50 và F-22A. Vì thế, các bộ dẫn động thủy lực có được lại to và nặng, làm kết cấu trở nên quá nặng. Các giải pháp về cánh đứng đuôi quay toàn phần và các khoang thu càng hoàn toàn khiến người ta nghi ngờ trình độ chuyên môn của những người thiết kế. Các chuyên gia Nga công khai cười cợt các giải pháp này.

Hiện tại, chưa nghe và chưa thấy bất kỳ thành tựu thật sự nào của Trung Quốc trong lĩnh vực chế tạo các radar anten mạng pha có trình độ xứng đáng. Mấy năm trước, Trung Quốc có hợp tác đôi chút với Nga trong lĩnh vực này, nhưng sau đó, việc này dường như đã đình chỉ. Bởi lẽ, Nga chẳng có lợi lộc gì khi giúp chế tạo radar cho một máy bay đối thủ cạnh tranh của tiêm kích thế hệ 4++ Su-35 của mình mà bản thân Nga cũng muốn bán sang Trung Quốc.

Vấn đề động cơ

Nhưng đó chưa phải là điều khủng khiếp nhất đối với Trung Quốc. Mà là chuyện họ không có động cơ nội địa cho J-20. Động cơ tiên tiến thế hệ 5 WS-15 mới chỉ tồn tại trong giấc mơ và những kế hoạch xa xăm. 

Động cơ nội địa thế hệ 4 hiện có WS-10A không có khả năng hoạt động. Nó có đặc tính động học cực kỳ tồi tệ và độ ổn định thấp ở các chế độ làm việc khác nhau mà một máy bay tiêm kích cần có. Và nó có dự trữ làm việc gần như bằng 0 - chỉ có 25-40 giờ, thay vì 400-800 giờ cần thiết. Việc giải quyết các vấn đề của động cơ này hiện nằm ngoài khả năng của công nghiệp Trung Quốc. 

Trung Quốc hiện cũng không có các lá cánh bình thường cho động cơ máy bay cũng như nhiều thứ khác. Cả hệ thống điều khiển số động cơ cũng không có khả năng tăng dự trữ làm việc. Lắp một động cơ như vậy lên máy bay đơn giản là thảm họa, nếu như nó không được lắp kết hợp với 1 động cơ Nga AL-31F. Bởi vì động cơ này thậm chí còn không được lắp cho loại máy bay dù là hàng nhái Su-27SKK là J-11B, điều đó kết hợp với những vấn đề khác sẽ là dấu gạch chéo cho tương lai của máy bay. 

Trung Quốc cũng có biến thể động cơ mạnh hơn là WS-10G, nhưng dự trữ làm việc của nó có thể còn tệ hơn. 

Trung Quốc hiện có 2 mẫu chế thử J-20, nhưng lại đánh số hiệu giống nhau - đây là mưu lược sáng tạo của Trung Quốc để đánh lạc hướng. Một mẫu được lắp các động cơ Trung Quốc và dường như nó đã cất cánh. Nhưng tải làm việc chính sẽ do máy bay thứ hai lắp các động cơ AL-31FN mà Nga bán cho Trung Quốc để lắp cho tiêm kích J-10, gánh vác. Còn máy bay lắp các động cơ nội địa thì được cất kỹ trong hăng-ga vì nó đã hoàn thành sứ mệnh của mình. 

Việc các khoang máy của động cơ AL-31FN được bố trí thấp không cho phép Trung Quốc bố trí các khoang vũ khí có kích thước bình thường ở trong bụng máy bay dưới các động cơ. Nhưng có thể họ sẽ sắp xếp được một khoang vũ khí ở giữa 2 động cơ. Tuy nhiên, trên các mẫu máy bay đầu tiên, ta chẳng thấy khoang vũ khí nào cả.

Mức trang bị sức kéo của J-20 là thấp và nó rõ ràng thua kém cả Т-50, cả F-22A, cả Su-35S và Su-30. Cơ hội để Nga bán cho Trung Quốc để lắp trên J-20 các động cơ mạnh hơn, dù là loại động cơ quá độ Nga sang thế hệ mới như 117S là gần như bằng 0. Có chăng thì là bán cả gói trong một lô Su-35 kha khá. Dĩ nhiên là cũng có những khả năng như Nga có thể bán nhiều động cơ hơn số máy bay nếu như hợp đồng được ký kết và nhắm mắt làm ngơ chuyện một số trong các động cơ đó được dùng không đúng quy định. Nhưng việc đó cũng sẽ không giải quyết được những khó khăn của Trung Quốc. Chừng nào chưa có loại động cơ nội địa mạnh và tin cậy thì mọi dự án máy bay thế hệ 5 chỉ là trò trẻ.

Kết luận là Trung Quốc làm ra được một máy bay nặng nề, to xác, không tàng hình với khả năng cơ động và mức trang bị sức kéo thấp, thêm nữa là không có khả năng đạt tốc độ cao tới 2 lần tốc độ âm thanh trở lên. Vì thế tốt nhất nên so sánh J-20 không phải với đại bàng, và thậm chí không phải là với cá voi răng kiếm mà là với con thú to xác Megateri. Ngày xửa ngày xưa, quãng 10.000 năm trước, trên lục địa châu Mỹ từng sống một loại thú dài 6 m và cao hơn con voi, được gọi là Megateri, là họ hàng với con cu li hiện đại và ăn thức ăn cây cỏ.

Vậy thì một máy bay như vậy thì làm được gì? Làm máy bay đánh chặn thì không đủ tốc độ, làm máy bay tiêm kích giành ưu thế trên không thì quá to, nặng và ì ạch, không cơ động. Kích thước phần mũi khá to, nhưng chẳng có gì để lắp vào đó làm radar. Có thể làm máy bay tiêm kích, nhưng chỉ có điều chưa rõ là vũ khí tiêu diệt mục tiêu mặt đất có bỏ vừa được vào các khoang vũ khí bên trong hay không vì những vũ khí này thường rất to. 

Ở dạng hiện nay, J-20 chỉ có thể trở thành mẫu trình diễn những công nghệ lạc hậu đã 10-15 năm, những công nghệ khó cho phép Trung Quốc chế tạo một máy bay tiêm kích chiến đấu thế hệ 5 (Trung Quốc gọi là thế hệ 4). Nó không thể được xem là mẫu chế thử thế hệ 5. Trung Quốc sẽ còn phải vượt qua con đường này và nó sẽ còn dài lắm.

Show diễn còn tiếp tục

Đặc biệt kinh ngạc là cách tiếp cận của Trung Quốc đối với vấn đề bảo mật J-20. 
Ở Nga, khi đang chuẩn bị cho Т-50 cất cánh, không có một bức ảnh nào lọt lên mặt báo và internet, còn đủ thứ rò rỉ thông tin từ những người trong cuộc, như sau đó người ta nhanh chóng tìm hiểu ra, phần lớn lại là thông tin giả về hình dáng bên ngoài của máy bay. Và đó là khi mà sân bay của nhà máy nằm ngay trong thành phố! 

Loại xe tăng bí mật Objekt 195 (T-95) của Nga tồn tại hơn chục năm cũng chỉ mới đây mới bộc lộ, còn lại là toàn xuất hiện trong các áo bọc và ở biến thể cũ! 

Còn ở Trung Quốc thì xung quanh sân bay mà J-20 chuẩn bị cất cánh, người ta cắm cả các khu lều trại, dân chúng đi xe đến, mang theo trẻ con, camera và máy ảnh. Tất cả cứ như một sự phô trương cố ý. Để khoe với thiên hạ là: Thấy chưa, chúng tôi cũng làm được như Nga và Mỹ. Hơn nữa, họ lại phô diễn cho công chúng bình dân vốn luôn sẵn lòng phấn khởi với những thành tựu của đất nước mà chẳng hiểu tí gì những điều tế nhị đằng sau, song lại sẵn sàng tuyên truyền ầm ĩ khắp nơi theo giọng điệu cần thiết. 

Công chúng và cả phần lớn báo chí Trung Quốc tất nhiên là sẽ không thể hiểu được rằng thay vì máy bay thế hệ 5 thật, họ đã bị giúi cho một đồ giả. Nhưng liệu ban lãnh đạo Trung Quốc có thể hiểu ra điều đó hay không?

·         Nguồn: AN, 12.1.2011.

Đọc thêm!

"A bờ cờ" hay "A bê xê"?

Nhiều người thắc mắc cách phát âm các chữ cái trong tiếng Việt thật rắc rối, lúc thì “a bê xê”, lúc thì lại là “a bờ cờ”, thật là chẳng thống nhất tí nào cả. Vấn đề này thật ra rất đơn giản. 

Vấn đề chúng ta nhầm lẫn ở đây chính là ta muốn phát âm từ nó hay ta muốn đánh vần nó.



Phát âm (pronounce) nghĩa là tái tạo lại âm tiết thực trong quá trình giao tiếp. Việc xác định cách phát âm các nguyên âm rất đơn giản, vì nguyên âm là những âm đứng một mình có thể thành một từ hoàn chỉnh, thì phát âm là /a/, i thì phát âm là /i/. Còn đối với cách xác định việc phát âm phụ âm thì khác, bởi phụ âm không thể tự tạo thành từ hoàn chỉnh được. Chữ b trong thực tế giao tiếp được phát âm như thế nào? Muốn biết, phải kết hợp nó với một nguyên âm để tạo thành một từ, rồi phân chia từ đó ra thành các đoạn âm. Ví dụ, ta có chữ , giờ phân chia  thành các đoạn âm, tách lấy âm b, hay nói dễ hiểu hơn là bạn hãy thử đọc thật là chậm từ , bạn thấy chữ được phát âm như thế nào? Là “bờ” đúng không?

Vì phát âm chỉ có thể được diễn tả bằng cách nói, chứ không thể cách viết, nên mình ghi ở trên chữ phát âm là “bờ” không có nghĩa là bạn tròn vành rõ chữ mà đọc là /bờ/ được, mà phải dùng hơi bật ra âm /b/.

Trong nhiều ngôn ngữ dùng chung chữ cái, cách phát âm các chữ cái khá giống nhau, chữ l trong tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Việt thì cũng đều là lờ cả thôi. Ngược lại, trong cùng một ngôn ngữ, một chữ cái lại có thể phát âm nhiều cách khác nhau, chẳng hạn chữ c trong tiếng Anh có lúc phát âm là cờ (cat), có lúc là xờ (cent), hay như trường hợp g trong get hay gem vậy. Trong tiếng Việt không có chuyện này, vì chữ Việt là loại chữ phiên âm, mặt chữ và mặt tiếng thống nhất với nhau rồi.



Đánh vần (spell) là cách người ta quy ước chữ cái đó được gọi như thế nào để thuận tiện trong quá trình giao tiếp, hay dễ hiểu hơn đánh vần là đặt tên cho chữ cái. Khi đánh vần phụ âm, trong mỗi ngôn ngữ, người ta thống nhất mượn thêm một âm vị nào đó để diễn tả. Chẳng hạn là i trong tiếng Anh (bi, xi, đi), ê trong tiếng Pháp và tiếng Việt (bê, xê, đê), ay trong tiếng La Tinh (bay, kay, đay)…

Đánh vần được dùng rất nhiều trong đời sống hàng ngày, khi nhân viên bưu điện đề nghị đánh vần tên của bạn chẳng hạn, hay các từ viết tắt…Như vậy, để trả lời cho câu hỏi, ABC đọc như thế nào, ta nên hiểu họ đang hỏi cách đánh vần như thế nào. Và cũng có thể kết luận rằng việc báo chí đăng cái ý kiến “nên giữ gìn tiếng Việt, đọc VTV và “vờ tờ vờ” thay vì theo kiểu Pháp “vê tê vê”, kẻo lai Tây, mất gốc” là hoàn toàn nhảm nhí. Nếu đã nhìn nhận chữ Quốc Ngữ, thành quả của tập thể các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Ý, Pháp, là chữ của người Việt Nam thì chẳng có lí do gì để nói cách đọc “a bê xê” không phải là cách đọc của dân tộc ta được.
Đọc thêm!

Tiếng mẹ đẻ

Phan Cẩm Thượng

Lịch sử chế độ quan liêu Việt Nam là lịch sử của bọn ăn không ngồi rồi, không dám chịu trách nhiệm, việc nào có đút lót thì sốt sắng, việc nào khó thì đùn lên quan trên, quan trên lạ đùn lên quan trên nữa, quan trên nữa thì đùn lên vua. Quá trình hành chính này sinh ra cách ăn nói vu vơ, không chết ai, không được việc gì, đầy sự cảm thông, cũng như đầy sự vô trách nhiệm.

1. Ngôn ngữ của một dân tộc là một quá trình rất lâu dài từ hàng vạn năm đến hàng ngàn năm phát triển. Tôi luôn nghi ngờ các nhà khảo cổ học và lịch sử quy định sự phát triển của một dân tộc với thước đo vài ngàn năm. Để có được một tiếng mẹ đẻ một tộc người cần xuyên qua quãng thời gian không ngắn như thế. Ngôn ngữ không phải là các ký hiệu chỉ vật chất hay ý thức nào đó, nếu thế chúng ta đã học ngoại ngữ rất dễ dàng, trái lại ngoài tiếng mẹ đẻ của mình ra không ai có thể thạo một tiếng mẹ đẻ thứ hai, mà chỉ có thể giỏi một hoặc nhiều ngoại ngữ. Ngôn ngữ chính là biểu cảm tâm hồn và trời đất quy định tâm hồn ta thuộc về một dân tộc nhất định. Ngay cả một đứa trẻ lớn lên với nhiều tiếng nói xung quanh, nó vẫn thường nằm mơ bằng một ngôn ngữ, và trong thầm thì và im lặng của tâm thức chỉ có duy nhất một tiếng mẹ đẻ.

Tiếng mẹ đẻ của bà tôi và của tôi là tiếng Việt, hay có lúc người ta gọi là tiếng Kinh. Bà bảo: Có củ khoai cho cháu, chạy sang hàng xóm mượn cho bà cái kéo, tiên sư anh lúc nào cũng ỉa non đái ép, ăn nhanh lên còn đi học không thằng bố mày lại gào lên, lậy Thánh mớ bái cho chúng con rộng đường làm ăn... Tôi thuộc lòng tất cả những lời lẽ này, nhưng lại không nói như thế nữa. Tôi có cách ăn nói của thế hệ mình. Như vậy cứ vài mươi năm tiếng mẹ đẻ lại thay da đổi thịt một lần, lớp nọ chồng lên lớp kia, cái cũ chưa mất đi, cái mới đã nẩy sinh, đó là sự sinh động của một ngôn ngữ. Sự thay đổi đó bây giờ còn diễn ra nhanh hơn, có khi vài năm, nhưng trước thế kỷ 19, một trăm năm ngôn ngữ mới đổi mới một lần. Do đó con người bây giờ có cái lợi thế của một xã hội năng động, nhưng người ngày xưa có cái lợi thế của người luôn có gốc rễ.

Khi một đứa trẻ lớn lên đầu tiên nó sẽ được học chào và mời. Gặp ai lớn hơn mình đều phải chào cả: chào ông chào bà, chào bố  chào mẹ, chào anh  chào chị, chào bác chào cô. Thông qua lời chào đứa trẻ sẽ phân biệt được các đại từ nhân xưng phức tạp của tiếng Việt, nó sẽ phải gọi mọi người bằng ngôi thứ đấy, theo tuổi tác, không thể nào chỉ có nỉ và wo hay you và I như tiếng Tầu và tiếng Anh. Thế là một tư duy phán đoán và   một thứ lễ nghĩa hình thành đi theo đứa bé trong quan hệ phức tạp của người Việt. Sau đó là học mời: mời bác vào chơi, mời bà xơi cơm, bà mời cơm, mời anh chị lại nhà, quý hóa quá, mời ông uống trà, mời sếp rửa tay. Rất sáo rỗng, nhưng tập tục lời chào cao hơn mâm cỗ, không thể không mời nhau. Khi ăn cơm người ta sẽ mời, nhưng không có nghĩa là bạn được ăn, cái đó gọi là mời rơi

Chào mời, rồi đến chửi. Người Việt xưa coi chửi là một tập tục rất bình thường khi họ bất bình và rất yêu thương, nhưng họ không hay văng tục, trừ một lớp người gọi là giang hồ tứ chiếng. Văng tục và nói đệm tục là một lối ăn nói dân dã đang có xu hướng phổ biến, mà thực ra nó chỉ phát triển từ cuối thế kỷ 19 đầu 20 trở lại đây. Mẹ mày, Đ mẹ mày, Đ.. L... mẹ mày, tiên sư mày, tiên sư cha mày, bố mày, Đ...cả lò nhà mày, đồ con đĩ, đồ con chó, đồ chó, chó cái liếm L..., đồ mặt L..., đồ gái đĩ già mồm, ngu như bò, ngu như chó, tham như lợn, nhẵn như cầu hàng thịt... 

Có thể nói, người Việt chửi rất chua ngoa và tục tĩu, trong đó toàn dùng các quan hệ tính dục với bậc trên của đối phương để sỉ nhục. Nó thể hiện sự bất lực của họ trong cuộc sống thường nhật và những ức chế không được giải tỏa. Xong tập tục chửi đổng có vần điệu và có bài bản lại là một nét sinh hoạt khác rất lâu đời. Chúng phần nhiều được các bà già mù chữ dùng để thóa mạ một đối thủ có quyền có chức hay ức hiếp dân lành, hoặc bọn trộm cắp trong làng. Ví dụ một bà già ở Bương Cấn, Quốc Oai, Hà Tây chửi khi mất gà:Cờ xanh cắm ngõ, cờ đỏ cắm nhà, bắt lấy tên, biên lấy tuổi, lên trình Nam tào sao Bắc đẩu, đứa nào ăn cắp con gà của bà. Con gà ở nhà bà là con công, con phượng, về nhà mày là con cú, con cáo. Nó mổ mắt cả lò nhà mày, mày hộc máu răng, mày văng máu mép, mày vật đống rơm, mày đơm đống rạ... Bài ca đó có thể kéo dài đến hai ba ngày, cho đến khi đối phương không thể chịu đựng được đành thả con gà ra. Rất buồn cười là kẻ ăn cắp được một con gà, về nhà thường lại thịt một con gà của nhà mình trước, đợi khi câu chuyện êm xuôi mới chén hoặc nuôi con gà ăn cắp. Người ta gọi đó là kẻ cắp nhà quê.

Làng xã là một xã hội khác so với những gì ta quan niệm. Đàn bà ở đó không được đi học, họ được yêu nhưng lấy ai lại do cha mẹ quyết định, có thời họ được thừa kế một phần tài sản của cha mẹ, nhưng đại thể là không. Họ có nghĩa vụ yêu thương chồng con vô điều kiện, cấy cầy và buôn bán. Như vậy phụ nữ Việt hoàn toàn khác với phụ nữ phương Đông nói chung và phụ nữ Hồi giáo, những người về cơ bản không phải ra chợ bán hàng, hay lao động nặng ngoài đồng ruộng. Nhưng vì thế mà người phụ nữ Việt có vai trò lớn trong gia đình, họ có đời sống tinh thần riêng bởi Phật giáo và các truyện thơ dân gian. Cái lời ăn tiếng nói của đàn bà trong làng là một phần rất phong phú trong ngôn ngữ tiếng Việt. Thân em như giếng giữa đàng / Người khôn rửa mặt người quàng rửa chân, Ước gì sông rộng tầy gang / Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi; Người khôn ăn nói nửa chừng / Làm cho người dại nửa mừng nửa lo; Thà mất nửa sào trước cửa / Còn hơn mất nửa con đầu buồi... đều là tiếng nói của nữ nhi cả. Trẻ con Việt trước tuổi đi học (bẩy, tám tuổi) luôn ở cạnh mẹ và bà, nên mới có câu: Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Như vậy đời sống tâm thức của chúng hoàn toàn từ kiến thức dân gian và tâm hồn thiên về cái tình của người phụ nữ. Rất ít người Việt có đời sống lý trí mạnh, mọi việc đều phải giải quyết theo cái tình trước.

Tiếng nói thường nhật và tiếng nói văn học đôi khi lẫn lộn vào nhau. Có thể nói mỗi bà già Việt xưa đều là một kho cổ tích, tiếu lâm, ca dao dân ca, hát ru, thành ngữ tục ngữ thuần Việt, trong khi đàn ông chạy theo văn tự của Thánh hiền, những lời cao siêu trong Tứ thư Ngũ kinh trang trọng. Bẩm hoàng thượng, muôn tâu bệ hạ, học nhi thời tập chi, bất diệc lạc hồ (học lại được hành, chẳng vui sao), đại nhân lâu nay vẫn an khang đấy chứ, nhân tứ tuần khánh thọ, cung hỉ các ngài, mời các ngài dùng trà, mời quan khách lên mâm trên, chúc thượng lộ bình an... Nghĩa là có một lối ăn nói khác ảnh hưởng sâu sắc từ văn ngôn tiếng Hán, cách thức và lễ nghĩa phong kiến Trung Hoa và Việt Nam. 

Đôi khi sự thay đổi của ngôn ngữ lại phụ thuộc vào vài cá nhân nhà văn, đó thực sự là các văn hào. Từ sau khi tác phẩm của họ được truyền tụng, tiếng mẹ đẻ được mở rộng thêm một bước. Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Ngâm nga buổi trưa và buổi tối, lẩy thơ, và nói năng ví von bằng nguồn thơ có sẵn... là cách thức phổ thông nhất. Tôi thấy một ông già vác rá đi vay gạo. Ông hàng xóm bảo: Nếu cụ lẩy Kiều được về việc hết gạo, thì tôi biếu không một rá. Ông vay gạo đọc luôn: Đói lòng vừa ghé tới nơi / Thì đà gạo vãi cơm rơi bao giờ / Bếp kia lạnh ngắt như tờ / Nồi kia rêu đã lờ mờ phủ xanh. Nguyên văn trong Kiều như sau: Thuyền tình vừa ghé tới nơi / Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ / Phòng không lạnh ngắt như tờ / Dấu xưa rêu đã lờ mờ phủ xanh, đó là đoạn một người khách tìm đến nàng Đạm Tiên thì nàng đã xanh cỏ đỏ mồ từ lâu.

Ăn nói hàng ngày là một biểu hiện của tính cách dân tộc, ngay từ cách dùng từ ăn nói, mà không dùng làtiếng nói, lời nói. Ăn và nói là hai việc khác nhau, ghép với nhau chúng thể hiện phong cách sinh hoạt. Người Việt nói: ăn nói, ăn nằm (tình yêu thắm thiết đã có sinh hoạt tình dục), ăn trông nồi, ngồi trông hướng, trồng lúa ăn nằm, chăn tằm ăn đứng... chứng tỏ ăn là hành vi quan trọng, khởi thủy, vì vậy mới nói nhân chi sơ là sờ tí mẹ, tính bản thiện là miệng muốn ăn. Nhưng khi nói riêng về ăn, thì người Việt có không biết bao nhiêu từ tương tự: ăn, đớp, hít, chén, nhậu, nhắm, hốc, bớp, đả, đánh, húp, nhôm, quạc, sực... cũng giống như những từ chỉ việc đánh nhau nhiều vô kể: đạp, đấm, đá, thụi, bốc, túm, quăng, quật, tát, béo, thoi, ục, chưởng, đả, đánh, cốc, gõ, chém, bổ, húc, quạt... tất nhiên là mỗi từ đắc địa trong một hành vi cụ thể, nhưng có lẽ so với các ngôn ngữ khác là quá phong phú. Từ ngữ diễn đạt các trạng thái tình cảm còn giầu có gấp bội, nhưng ngược lại các từ chỉ vật chất lại khá nghèo nàn, nhất là những sản phẩm công nghiệp, người Việt hầu như hoàn toàn vay mượn từ ngôn ngữ Hán và Anh, Pháp. 

Khi trò chuyện, người Việt thường khen ngợi người khác sung sướng hơn mình và bản thân mình thì ôn nghèo kể khổ, dường như chỉ có họ là người khổ nhất trên đời. Bác xây nhà mới to quá, dễ đến vài trăm triệu, con cháu lại đề huề cả, anh ấy làm cho người nước ngoài ối tiền, bác cứ gọi là ngồi mát ăn bát vàng, tiền nhiều như thế để đâu cho hết, cái áo này chắc mua tận Mỹ đây... Và Khốn nạn cái thân tôi, khổ thân em quá, sao mà em cơ cực thế này, cay đắng lắm chị ơi, nào có vui vẻ gì, chồng với con gì toàn một lũ ăn bám, ông giời không có mắt thôi, kỳ này thì cứt cũng không có mà ăn, đú đởn cho lắm vào rồi ít nữa mốc mép, giời ôi, cái lồn mà để ngoài da / một ngày mất bẩy mươi ba cái lồn... 

Cho đến nay toàn bộ đời sống tinh thần của người Việt vẫn dành cho làm ăn và quan hệ tình cảm, tất nhiên điều này cũng thuộc về con người nói chung, nhưng ngoài cái đó ra lại không có chỗ nào cho văn hóa nghệ thuật và khoa học. Những quan tâm đến môi trường và cộng đồng cũng chưa có một vị thế trong tâm hồn, và tâm hồn ấy cũng không có một đấng tối cao nào ngự trị. Trước nền kinh tế thị trường, Việt Nam là một xã hội nông nghiệp, thu nhập không cao, tích lũy không nhiều, người dân không có ước vọng cao xa ngoài đủ ăn đủ mặc, rồi đến nhà ngói sân gạch. Nền kinh tế thị trường bắt đầu, người ta lao vào guồng máy kiếm tiền như con thiêu thân, tham vọng của từng cá nhân đều là cái thùng không đáy.

2. Khi tư duy lý trí không mạnh, ăn nói ví von là cách tốt nhất để diễn tả. Ví von luôn gắn với đời sống vật chất cụ thể và các trạng thái tâm sinh lý. Ôi dào, dậu đổ bìm leo, nhà em có gì, toàn chổi cùn rế rách, kẻ cắp bà già gặp nhau, sâu bọ lên làm người, chó cắn áo rách hay hớm gì, miệng nam mô bụng một bồ dao găm, tâm xà khẩu Phật, mật ngọt chết ruồi... Trên cơ sở này ca dao dân ca cũng dùng toàn ví von so sánh: Ước gì anh hóa ra dưa / Để anh được tắm nước mưa chậu đồng; Ước gì sông rộng tầy gang / Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi; Một vung một chĩnh chẳng mong / Một vung hai chĩnh còn nong tay vào; Chồng người đánh giặc sông Lô / Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần; Chồng người buôn ngược bán xuôi / Chồng em ngồi bếp để buồi chấm gio... Như vậy nếu tìm trong kho tàng văn học truyền miệng Viêt Nam cũng đủ hết những hình thức vật chất thường dụng. Đồ dùng do con người chế tạo, sử dụng hàng ngày, các trạng thái của nó phản ánh các trạng thái tinh thần. Ví dụ: lợn cưới áo mới (đồ tốt), chổi cùn rế rách (đồ tồi), già được bát canh, trẻ được manh áo mới (khát vọng), nhẵn như cầu hàng thịt (sự thớ lợ, trơ trẽn).

Nhà thơ Nguyễn Khuyến viết:

Đã bấy lâu nay bác đến nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò nói chuyện trầu không có, 
Bác đến chơi nhà, ta với ta.

Một khung cảnh rất đặc trưng cho căn nhà người nông dân, có đủ ao cá, gà qué, vườn rau, cải, bầu, cà, mướp, và trầu cau, nhưng cuối cùng là chẳng có gì ngoài tình người.

Tiếng Việt từng được thử thách với tiếng Hán trong một quá trình lịch sử lâu dài. Cách chúng ta một ngàn ba trăm năm, mà Lý Bạch, Đỗ Phủ đã viết hàng ngàn bài thơ tinh tế về nhân gian thế sự và tình cảm của con người đủ mọi trạng thái góc độ. Cũng thời gian đó, người Việt không thể nào mà dùng tiếng Việt diễn tả như vậy được, và thực ra tất cả các thứ tiếng khác trên đời lúc đó cũng thế. Ta có thể thấy điều đó trong văn học Trung cổ phương Tây. Muốn diễn đạt sâu sắc điều gì, nhà Nho Việt lại phải dùng Hán văn. Tám trăm năm sau Lý Đỗ, Nguyễn Trãi làm thơ Nôm thế này: Góc thành Nam, lều một gian / Bụt chẳng phải, ở chẳng phải / Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn. Ba trăm năm sau Nguyễn Trãi, đến Hồ Xuân Hương tiếng Việt đã trở nên tinh vi sinh động ngóc ngách lạ thường: Trời đất sinh ra có một vòm / Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom. Nhưng cái khí vị nửa Nôm nửa Hán vẫn còn phảng phất cho đến Bà huyện Thanh Quan: Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn / Tiếng mõ xa đưa tiếng ốc dồn / Gác mái ngư ông về viễn phố / Gõ sừng mục tử lại cô thôn.  

Tôi tin chắc rằng cái rổ, cái rá hoàn toàn do người Việt làm ra không nhất thiết phải học người Trung Quốc và từ rổ rá cũng hoàn toàn thuần Việt. Nhưng tôi lại thất vọng vô cùng khi biết cái khố lại là một từ Hán, chỉ cái quần ngắn, chả lẽ không có người Trung Quốc thì người Việt cởi truồng, khi mà xưa kia rất nhiều người Việt chỉ có độc cái khố che bộ hạ. Tại sao chúng ta lạ nói là bông hoa, khi bông chính là hoa trong tiếng Hán. Người Việt nói rằng đâm bông kết trái, học tiếng Hán, ta nói rằng đơm hoa kết quảbông trái ta có thể nói là hoa quả. Quá trình này tất nhiên không thiệt gì, mà tiếng Việt lại thêm phong phú và sinh động gấp bội. Tiếng Hán đã có mặt trong tiếng Việt tới 60 %, có thể chỉ là lượng từ, nhưng nó đã vào như thế nào và nó làm thay đổi hay phong phú thêm tâm hồn của người Việt như thế nào, chúng ta cũng thường không để ý. Ở một số tỉnh miền nam Trung Quốc như Quảng Đông, Triết Giang, Phúc Kiến, nhiều từ gốc Hán được phát âm không khác gì tiếng Việt phát âm. Ví dụ chu sa, xạ kích, mục tiêu, mục lục... Trong khi đó tiếng Hà Bắc (Bắc Kinh) ngày nay là khác hẳn. Tất nhiên người Việt không thể nói chuyện thẳng với người Quảng Đông bằng tiếng Hán Việt và ngược lại, nhưng chắc chắn trong lịch sử có lúc ngôn ngữ vùng phía nam sông Dương Tử rất gần gũi với ngôn ngữ Việt. Ở Hồng Kông tôi đi khắc một con dấu cho họa sỹ Trương Hạnh, tôi nói với ông thợ rằng  khắc cho tôi con dấu tên Zhangxing, ông ta bảo tôi viết ra, rồi đọc nguyên văn là Trương Hạnh. Âm Hán Việt nhuần nhuyễn với nhau trong hai ngàn năm qua làm cho tiếng Việt trở nên lóng lánh uyển nhã lạ thường. Ví như ta đọc thơ Đường bằng âm Hán Việt là hay vô cùng, đến mức Lý Bạch, Đỗ Phủ chắc phải trầm trồ sao thơ mình lại có thể uyển chuyển đến thế. Đại loại:

Bất hướng Đông sơn cửu
Tường vi kỷ độ hoa
Bạch vân hoàn tự tán
Minh nguyệt lạc thùy gia

(Núi Đông lâu không về
Tường vi hoa mấy độ
Mây trắng tan ra mãi
Trăng sáng lọt nhà ai)

Từ đây các nhà thơ Việt Nam có thể làm:

Lởn nhởn mấy hàng tỏi
Lơ thơ mấy nhánh khương
Vẻ chi là cảnh mọn 
Thế mà cũng tang thương
(Nguyễn Gia Thiều) 

Đỗ Phủ viết Vô biên lạc diệp tiêu tiêu hạ / Bất tận Trường Giang cổn cổn lai.  (Vô hạn lá rơi ào ào rụng / Chẩy mãi Trường Giang lớp lớp dồn). Nguyễn Khuyến viết Hoạn đào chỉ dĩ khinh tâm trạo / Lợi trục thời thường lãnh nhãn khan (Bể hoạn chỉ nên chèo với lòng nương nhẹ / Cuộc lợi lộc nhìn với con mắt lạnh lùng). Bà huyện Thanh Quan viết Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Ở thế kỷ 15, trong văn bản Cổ châu lục chùa Dâu, nhà sư Khâu đà la nói với đệ tử Man Nương rằng: Mày ở trong phép của tao. Nếu diễn đạt đúng tiếng nói của chúng ta ngày nay phải thế này: Đệ tử, cô đang theo học đạo của thầy. Chúng ta nhận ra một điều khác, có thời người Việt cũng dùng phổ biến hai ngôi mày và tao thôi, nhưng rồi một quá trình gia đình hóa xã hội nào đó đã diễn ra, người Việt bê toàn bộ danh từ chỉ ngôi thứ trong gia đình làm đại từ nhân xưng ngoài đường, từ đây ta phải gọi người xung quanh ta là cụ, ông, bà, bác, chú, dì, anh, chị... một cách phiền toái nhất trên đời. Thế nhưng khi Đặng Trần Côn viết: Tương cố bất tương kiến / Thanh thanh mạch thượng tang / Mạch thượng tang, Mạch thượng tang / Thiếp ý quân tâm thùy đoạn tràng, mà Đoàn Thị Điểm dịch là: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy / Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu / Ngàn dâu xanh ngắt một mầu / Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai, lại chẳng tuyệt vời khi chúng ta có cả hai thứ tiếng hay sao. Có những lúc tiếng Hán gần tiếng Việt đến lạ lùng, ví dụ: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất bất năng khuất (Mạnh Tử). Được dịch là: Giầu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục, có khác nào một sự chuyển tiếp giản đơn.

3. Tiếng Việt là một ngôn ngữ ý tượng hay cảm giác còn chưa chắc chắn. Tay cầm bán nguyệt xênh xang, bán nguyệt ở đây có thể hiểu là cái liềm, cái hái, nhưng cũng không hẳn như thế, cô gái này đung đưa với mặt trăng lưỡi liềm trong tay, cô cầm cái nón mà ta chỉ trông thấy một nửa, hay cô chẳng cầm gì cả, mà cổ tay, cánh tay tròn lẳn trắng ngà như mặt nguyệt. Rõ ràng mọi thứ không chính xác, không nhất quyết bề nào, đó chính là tiếng Việt. Một thứ tiếng không chính xác, khi nói không xác định được thì, và hành động kết thúc hay chưa, hay còn tiếp diễn, chủ ngữ là ai, ai nói với ai... Được bù lại, nó lại là ngôn ngữ rất văn chương và có chất thơ. Nó đòi hỏi ta phải cảm nhận, thay vì nhận biết một thông tin gì. Người Việt nói chuyện với nhau hàng ngày nhưng nghe kỹ nội dung rất vu vơ, chẳng ra đâu vào đâu, đụng đến việc cụ thể là giải thích hàng tràng dài mà càng không chính xác.

Đêm qua ngồi tựa song đào
Hỏi người quân tử ra vào có thấy vấn vương
Đêm qua gió lạnh đông trường
Nửa chăn nửa chiếu mà nửa giường để đó đợi ai
Tay du ngắt nhụy hoa nhài
Tay giơ đón gió, tay chòi ghẹo trăng
Rủi may cũng bởi chị hằng.
(Ca dao và Quan họ Bắc Ninh)

Thật chẳng có gì cụ thể, nhưng đầy những thông tin người tình trong lời ca rất đẹp. Cô gái không thể nói ra, không thể bày tỏ trước, nhưng chàng cứ quan sát, cảm nhận, còn mọi chuyện có tốt hay không còn phụ thuộc vào số phận. Nhưng nếu ta hỏi đáp với một người: Mày đi đâu đấy? Tao đi đằng này. Việc có tốt không? Cũng hòm hòm? Kiếm được nhiều không? Cũng tàm tạm. Con cái thế nào? Có giời lo. Chuyện ruộng làng ta thế nào? À lý trưởng còn hỏi quan trên, quan trên lại phải tâu lên đức kim thượng. Chiều nay có khao ở đình? Ờ có lẽ, rỗi thì ra. Đã lấy mạ chưa? Đã gieo đéo đâu mà nhổ... Rất nhiều thông tin, cũng như chẳng có gì. Cách ăn nói này của người Việt cho đến nay chẳng thay đổi là mấy, thậm chí nó còn ngày càng vu vơ và trừu tượng hơn, do công việc luôn khúc mắc với nhiều hủ tục hành chính rườm rà, dù người Việt đã và đang học tiếng Pháp, tiếng Anh hàng ngày. Tư duy và tâm hồn của một tộc người có cái gì đó cố hữu dù nói tiếng gì cũng vậy thôi. 

Lời ăn tiếng nói xuất phát từ hoàn cảnh lao động cụ thể. Bước vào một xã hội nông nghiệp, người nông dân biết mình phải làm gì với thời vụ và ruộng đồng. Tháng giêng trồng khoai, tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà, tháng tư cầy vỡ ruộng ra... cứ thế với xuân hạ thu đông, rồi lại xuân hạ thu đông, ông vua này hay ông vua kia, ông quan này hay ông quan kia, thì nhà nông vẫn một nắng hai sương trên đồng. Chuyện đồng áng họ bàn bạc rất cụ thể và hoàn toàn tin vào kinh nghiệm của mình chứ không nghe theo nhà Nho nào cả. Triều đình sẽ thu thuế đinh và thuế điền thông qua bộ máy lý dịch ở làng, tốt nhất là không sưu cao thuế nặng. Như vậy cuộc sống tự hình thành hai lối ăn nói, một đằng rất cụ thể với lao động sản xuất nông nghiệp và một đằng rất cao siêu với đạo lý của Nho giáo. Trong trường hợp họ cần đến lý thuyết Nho Lão Phật mà khó hiểu thì sẽ tìm cách dân gian hóa tam giáo ấy. Cho nên các học giả nhận định rằng: Nho giáo vào Việt Nam thì biến thành luân thường lễ nghĩa, Phật giáo vào Việt Nam thì biến thành mê tín dị đoan. Nói Phật là giác ngộ thì cao siêu quá, tốt nhất là Phật có nhiều mắt nhiều tay, nhiều quyền năng phép lạ, cứu vớt và phù hộ chúng sinh. Âm dương bát quái của Đạo giáo cũng trừu tượng nốt, nên vẽ lên cái gương treo trước cửa nhà để trừ tà ma.

Lịch sử chế độ quan liêu Việt Nam là lịch sử của bọn ăn không ngồi rồi, không bao giờ dám chịu trách nhiệm một cái gì, việc nào có đút lót thì sốt sắng, việc nào khó thì đùn lên quan trên, quan trên thì đùn lên quan trên nữa, quan trên nữa thì đùn lên vua. Ông vua sẽ phải bàn bạc từ chuyện ăn mày ăn xin, đê điều, giống má, thuế khóa đổ đi, dù có đủ các quan chức trách. Quá trình hành chính này sinh ra cách ăn nói vu vơ, không chết ai, không được việc gì, đầy sự cảm thông, cũng như đầy sự vô trách nhiệm. Kết thúc là sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Dư luận xã hội thì không bao giờ được coi trọng và trở thành nghị sự trong triều đình, nên biến thành chuyện tiếu lâm và hò vè chế riễu, mặt khác lại có khả năng chụp mũ giết người không dao bằng các lời đồn thổi. Cuối cùng là để cười, vui vui ấy mà, cũng nhì nhằng thôi, lo chi chuyện trời sập, kệ mẹ nó nói mãi cũng thế, ai có thân người ấy lo, việc quan đâu đến đàn bà trẻ con, ôi dào bói ra ma quét nhà ra rác, số nó giầu có cho nó giầu, nhà mình bạc phúc còn kêu ai, chết ngay đâu mà phải sợ, có phải nhịn bữa nào đâu mà kêu lắm thế, cho ông làm quan cũng vậy thôi, độc mồm độc miệng vừa phải còn để phúc đức về sau, con gà tức nhau tiếng gáy làm gì, của đi thay người, của thiên trả địa, rồi sẽ có quả báo nhãn tiền... Khi tất cả cách nói năng trên còn chưa tắt trên mồm người Việt tức là nền hành chính còn có vấn đề. 

2010

Đọc thêm!