Trang

Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Sự độc lập của thẩm phán Tòa án tối cao LB Mỹ


Mặc dù Tổng thống và Thượng viện cố gắng lựa chọn những người có cùng quan điểm với mình vào vị trí thẩm phán Tòa án Tối cao, nhưng trên thực tế, các thẩm phán Tòa án Tối cao đều thể hiện sự độc lập của họ đối với chính phủ và nghị viện như khi được bổ nhiệm họ đã trân trọng xin thề. 

Xét trên góc độ phân quyền thì Hiến pháp Mỹ là một trong những bản Hiến pháp thể hiện rõ nét nhất. Lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập và chế ước lẫn nhau.

Đầu tiên, sự độc lập được thể hiện trong quy trình xây dựng bộ máy của các nhánh quyền lực. Chẳng hạn, ở hai nhánh lập pháp và hành pháp, các nghị sỹ (thành viên của nghị viện - Thượng viện và Hạ viện) và Tổng thống (người đứng đầu nhánh hành pháp - chính phủ) được chọn lựa từ các cuộc bầu cử riêng biệt. Còn đối với nhánh tư pháp (tòa án), các nhà lập hiến khởi thủy nước Mỹ đã không dùng phương thức bầu cử để lựa chọn ra các thẩm phán, có lẽ nhằm tạo ra một nhánh quyền lực hoàn toàn độc lập - độc lập ngay cả đối với dư luận, áp lực chính trị, giúp các thẩm phán trở thành những trọng tài nhân danh công lý, lẽ công bằng để phán xử các tranh chấp.

Hiến pháp Mỹ (Điều II, Mục 2) trao quyền bổ nhiệm thẩm phán cho Tổng thống nhưng theo sự khuyến cáo và sự chấp nhận của Thượng viện. Điều này thể hiện sự chế ước của nhánh lập pháp đối với hành pháp trong việc bổ nhiệm thành viên của nhánh tư pháp. Liệu việc trao quyền bổ nhiệm thẩm phán Tòa án Tối cao cho Tổng thống và Thượng viện có làm mất đi tính độc lập của thẩm phán?
Tuy Tổng thống và Thượng viện cố gắng lựa chọn những người có cùng quan điểm với mình, nhưng trên thực tế, các thẩm phán Tòa án Ttối cao khi được bổ nhiệm đã trân trọng xin thề giữ vị thế độc lập đối với chính phủ và nghị viện. Nhờ vậy, các thẩm phán đã giành được sự tôn kính của người dân, cũng như mang lại uy tín, thẩm quyền to lớn cho Tòa án Tối cao trong chính trị và pháp luật nước Mỹ.

Hiến pháp cũng góp phần quan trọng không kém nhằm bảo đảm vị thế độc lập của thẩm phán, theo đó, “các thẩm phán Tòa án Liên bang sẽ có nhiệm kỳ suốt đời nếu làm việc tốt và đảm bảo rằng tiền lương của họ sẽ không bị cắt giảm trong suốt thời gian tại vị” (Điều III, Hiến pháp Mỹ).

Tiêu chuẩn để bổ nhiệm thẩm phán

Hiến pháp trao quyền bổ nhiệm thẩm phán Tòa án Tối cao cho Tổng thống và Thượng viện mà không quy định bất kỳ điều kiện, tiêu chuẩn cụ thể nào đối với thẩm phán. Tuy nhiên, trên thực tế, thông thường thẩm phán được bổ nhiệm từ các luật sư, hoặc từ các thẩm phán ở các tòa án cấp thấp hơn. Có thể hiểu rằng, trọng trách của thẩm phán là giải thích và áp dụng pháp luật do đó họ phải được đào tạo về luật và có năng lực, kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật. Ngoài ra, nhờ sự để ngỏ của Hiến pháp mà các thượng nghị sỹ được tự do đưa ra các tiêu chuẩn để bỏ phiếu, như quan điểm chính trị (đảng phái), nhân thân và trình độ tư pháp.

Số lượng thẩm phán tòa án tối cao

Số lượng thẩm phán Tòa án Tối cao không được quy định trong Hiến pháp, mà do nghị viện quy định trong đạo luật của liên bang. Ngay sau khi Hiến pháp Mỹ ra đời vào năm 1789, Tòa án Tối cao được thành lập theo Luật Tư pháp cùng năm, với số lượng thẩm phán gồm sáu người (một chánh án và năm thẩm phán). Tuy nhiên, từ năm 1801 đến năm 1863, số lượng thẩm phán thay đổi một vài lần, từ năm đến mười người. Vào năm 1866, số lượng thẩm phán là chín người (một chánh án và tám thẩm phán) và con số này cố định từ đó đến nay. Chánh án điều hành Tòa án Tối cao nhưng khi biểu quyết thì chỉ có một phiếu như các thẩm phán khác.

Vượt qua sức ép chính trị

Tòa án Tối cao Mỹ được trao quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật do nghị viện ban hành, các hành vi, chương trình của Tổng thống... Thách thức để thẩm phán vượt qua sức ép chính trị từ người đã bổ nhiệm họ không phải là nhỏ. Tuy nhiên, trên thực tế, một khi thẩm phán được bổ nhiệm, họ luôn tỏ rõ sự độc lập của mình, chỉ ra quyết định dưới màu sắc công lý. Có thể kể ra một số ví dụ: Khi Tòa án Tối cao Mỹ xem xét tính hợp hiến của hành động tịch thu các nhà máy thép lớn ở Mỹ của Tổng thống Harry S. Truman, hai trong số bốn thẩm phán do Tổng thống Truman bổ nhiệm đã bỏ phiếu chống. Hay trong vụ án nước Mỹ kiện Tổng thống Nixon sau khi ông từ chối trao các cuốn băng của Nhà Trắng theo lệnh của tòa án và viện dẫn đó là đặc quyền của Tổng thống, ba trong số bốn thẩm phán do Nixon bổ nhiệm đã bỏ phiếu chống lại ông.

Một thí dụ khác, sau khi Tổng thống Roosevelt tái đắc cử, ông đưa ra kế hoạch trình nghị viện bổ nhiệm tối đa, một lúc thêm sáu thẩm phán, nhằm khống chế Tòa án Tối cao, cũng như để “trả đũa” việc Tòa án Tối cao đã tuyên bố vi hiến một số đạo luật trong chính sách Kinh tế mới (New Deal) của ông ở nhiệm kỳ trước. Mặc dù cả Thượng và Hạ viện Mỹ đều ủng hộ chính sách kinh tế mới của Tổng thống Roosevelt nhưng các nghị sỹ, trong đó có một số người cùng đảng với Tổng thống, đã bác kế hoạch bổ nhiệm này vì họ cho rằng sự độc lập của cơ quan tư pháp quan trọng hơn những bất đồng về chính sách. Có thể nói, nghị viện đã thể hiện tốt vai trò ngăn chặn sự thâu tóm của Tổng thống Roosevelt đối với nhánh tư pháp, không để các quan tòa phụ thuộc hay chịu các áp lực chính trị từ người đứng đầu nhánh hành pháp.

Mới đây, ngày 9/8/2014 tại TP Ferguson, Missouri, thanh niên da màu Michael Brown đã bị cảnh sát da trắng Darren Wilson bắn chết. Vụ việc làm dấy lên làn sóng biểu tình của người da màu suốt thời gian qua, đặc biệt sau ngày 24/11/2014, khi công tố viên hạt St. Louis tuyên bố rằng bồi thẩm đoàn quyết định không buộc tội Wilson.

Mặc dù Hiến pháp Mỹ trao toàn quyền tư pháp cho tòa án, nhưng các thẩm phán cũng phải tuân theo các quy trình tố tụng theo luật định. Trong các vụ án hình sự, bồi thẩm đoàn được trao quyền quyết định buộc tội hay không buộc tội, trong khi các thẩm phán được trao quyền áp dụng các quy định của pháp luật vào vụ án.

Chính vì vậy, khi bồi thẩm đoàn quyết định không buộc tội Wilson, thẩm phán không thể làm khác đi. Liên quan đến vụ án, thẩm phán Tòa án Liên bang chỉ ban trát về việc cảnh sát TP Ferguson vi phạm Hiến pháp vì đã đưa ra lệnh cấm “đứng yên” và cấm quay phim chụp ảnh khi biểu tình.

Có lẽ với vai trò “gác cổng” Hiến pháp, thẩm phán liên bang đã bảo đảm được rằng, nếu vụ án chưa được tiến hành một cách công bằng bởi các nhân viên công quyền thì người dân có quyền lên tiếng, bằng quyền tự do biểu đạt cảm xúc (quyền biểu tình), và thông qua báo chí để giám sát hành vi của các nhân viên công quyền. Điều đó cũng thể hiện, quan tòa liên bang đang nhân danh công lý bảo vệ thế yếu trong phạm vi quyền hạn cho phép bởi Hiến pháp. 

Trần Đức Tuấn
19/12/2014 - Tạp chí Tia Sáng - tiasang.com.vn 
Đọc thêm!

Pháp luật bảo vệ đạo đức và các giá trị cộng đồng


Pháp luật định ra các chuẩn mực tối thiểu để yêu cầu các thành viên trong cộng đồng phải tuân thủ. Nếu vi phạm, các chế tài thường được áp dụng. Trong khi đó, đạo đức thường được đưa ra với tiêu chuẩn cao hơn pháp luật, và đối với từng chủ thể thì chuẩn mực đạo đức lại đặt ra khác nhau. Do vậy luật pháp cần có các quy định mở, linh hoạt để dễ dàng vận dụng vào thực tiễn.

Pháp luật được sinh ra với mục đích bảo vệ các giá trị về đạo đức và chuẩn mực của cộng đồng. Nếu không có pháp luật bảo vệ hoặc pháp luật không đủ sức mạnh để bảo vệ, các giá trị đạo đức sẽ bị xói mòn. Trong quốc gia có nền pháp lý tiên tiến, pháp luật sẽ được phân loại và bảo vệ được các giá trị đạo đức đối với từng đối tượng. Chẳng hạn như, đối với bác sỹ, luật sư, thẩm phán... nếu vi phạm các quy định về nghề nghiệp, họ sẽ bị trừng phạt bằng pháp luật với những chế tài khắt khe hơn so với người bệnh, thân chủ hay đương sự... Và trong một xã hội hoàn hảo, các quy định của pháp luật sẽ trùng với các quy tắc đạo đức, chuẩn mực của xã hội. Khi đó, các quy tắc đạo đức được luật hóa bằng các quy định cụ thể và có hiệu quả thực thi trên thực tế.


Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, luật pháp giúp hình thành nên các hành xử chuẩn mực cho cộng đồng, từ từ tạo ra các quy tắc đạo đức được xã hội thừa nhận nếu các quy định của luật pháp là hợp tình, hợp lẽ. Nếu pháp luật không hợp lý, điều này có thể xung đột và làm hại tới các giá trị của đạo đức, và cũng có thể đẩy cả cộng đồng đến với những thói quen xấu bởi việc chấp hành các quy định pháp luật đó.

Hiện nay, tại nhiều quốc gia vẫn đang áp dụng mô hình dựa vào ý chí của số đông và bảo vệ các giá trị mà số đông đó định ra để thông qua luật, mà chưa có cơ chế để bảo vệ lợi ích cho thiểu số, thế yếu, hay đi xa hơn đó là sự công bằng, bình đẳng giữa những con người với nhau trong giá trị đạo đức. Theo quy trình này, luật pháp được ban hành bởi đa số tán thành ở Quốc hội (Nghị viện), cơ quan lập pháp gồm các dân biểu đại diện cho ý chí đa số người dân. Sau đó, luật pháp có hiệu lực.

Một số quốc gia, đặc biệt là Mỹ, đã áp dụng mô hình kiềm chế và kiểm soát quyền lực nhằm hạn chế sức mạnh số đông của Nghị viện và bảo vệ lợi ích của thế yếu, thông qua việc trao quyền cho Tổng thống (người đứng đầu nhánh hành pháp) quyền phủ quyết luật, hay trao cho Tòa án quyền bảo vệ các giá trị căn bản (các giá trị đạo đức được ghi nhận) được quy định trong Hiến pháp (vai trò bảo Hiến). Từ đó, giả sử có một đạo luật được thông qua bởi Nghị viện yêu cầu trục xuất toàn bộ người da màu ra khỏi nước Mỹ, thì bất kỳ một người nào cũng có thể viện dẫn Hiến pháp để đệ đơn lên Tòa án tối cao yêu cầu tuyên đạo luật đó vi Hiến. Những cơ chế như vậy giúp người dân mạnh dạn đứng ra bảo vệ sự công bằng, lẽ phải hay các giá trị đạo đức, chuẩn mực cho cộng đồng.

Ở nước ta, liệu rằng một người tàn tật ngồi xe lăn hay một người nào đó có thể khởi kiện, yêu cầu làm đèn tín hiệu giao thông, thay vì các cầu đi bộ dành cho người đi bộ hay không, khi họ viện dẫn nguyên tắc mọi công dân đều có quyền bình đẳng theo quy định của Hiến pháp?

Một trong những nguyên nhân dẫn đến đạo đức của người Việt hiện nay đang xuống cấp là luật pháp chưa đóng vai trò hiệu quả trong việc bảo vệ các giá trị đạo đức.

Có thể viện dẫn một số ví dụ như: Căn cứ Nghị định 167/2013, chỉ áp dụng chế tài hành chính là phạt tiền đối với người có hành vi bạo lực gia đình. Đặc biệt, việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng như đối với người khác (thương tích 11%). Trên thực tế, chế tài này tỏ ra bất lực, bạo lực gia đình vẫn xảy ra thường xuyên. Thiết nghĩ, việc bổ sung các biện pháp khác như “lao động công ích” hay “hình sự hóa” một số hành vi trái đạo đức, luân lý trong mối quan hệ gia đình là cần thiết.

Hay một ví dụ khác, người thầy nhận phong bì của một sinh viên, đổi lại, sinh viên sẽ được cho điểm cao. Khi bị phát hiện, người thầy ấy sẽ bị kiểm điểm hoặc kỷ luật. Nhưng nếu vụ việc này xảy ra ở một số nước khác, người thầy ấy sẽ bị truy tố và có thể ngồi tù một vài năm bởi mối quan hệ đạo lý thầy trò là đặc biệt và cần được bảo vệ bằng những hình phạt đủ tính răn đe. Ở nhiều nước, chế tài hình sự cũng được áp dụng đối với các mối quan hệ như bác sỹ và bệnh nhân, luật sư và thân chủ,...

Có thể nói, trong phần lớn các trường hợp khi các giá trị đạo đức bị xâm phạm thì chưa có chế tài mang tính pháp lý thích đáng để xử lý, răn đe, cũng như thông qua đó để giáo dục người xâm phạm. Chính vì vậy, nên chăng cần ban hành các bộ quy tắc về chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực hành xử đối với một số nghề nghiệp, chẳng hạn như đối với luật sư, bác sỹ, thương nhân... Và điều quan trọng là một khi vi phạm những đòi hỏi chuẩn mực này, họ sẽ bị xử lý bằng các chế tài hành chính, hình sự một cách thích đáng. Những khẩu hiệu như “lương y như từ mẫu” , “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” không có chế tài thì dần dần cũng bị lãng quên.

Ở phạm vi rộng hơn, đối với người dân nói chung, luật pháp cần có các quy định mở, linh hoạt để dễ dàng vận dụng vào thực tiễn bởi không thể liệt kê được tất cả các quy tắc về chuẩn mực đạo đức của xã hội muôn hình vạn dạng vào trong các điều luật. Và để áp dụng có hiệu quả, các cơ quan công quyền, đặc biệt là các quan tòa, cần công tâm giải thích các quy định đó để đưa vào từng trường hợp cụ thể, từ đó bảo vệ các giá trị đạo đức, các chuẩn mực của cộng đồng.

Trần Đức Tuấn
23/01/2015 - Tạp chí Tia Sáng - tiasang.com.vn 
Đọc thêm!