Trang

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2011

Điện hạt nhân và những câu hỏi để ngỏ

Điện hạt nhân thực sự rẻ hay đắt? Những bài toán về huy động vốn, mô hình sở hữu, hoạt động đã được tính toán ra sao? Và vấn đề an ninh và an toàn hạt nhân đã được cân nhắc đầy đủ? - Ts. Vật lý Nguyễn Quốc Anh nêu vấn đề.

Điện hạt nhân: Đắt hay rẻ?
Theo Nghị quyết 66/2006/QH11, nhà máy điện hạt nhân là dự án công trình trọng điểm quốc gia phải trình Quốc hội phê duyệt. Đến nay, tính hiệu quả kinh tế và bài toán an ninh, bao gồm cả an toàn sản xuất vẫn còn nhiều vấn đề cần xem kĩ.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, về phương diện kinh tế, điện hạt nhân không rẻ so với các nhà máy nhiệt điện (chạy bằng than, khí, dầu). Đối với những nước có ngành điện hạt nhân phát triển, số lò hạt nhân lớn và đã được khai thác nhiều năm nên đã được khấu hao một phần, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và nhân lực đã được chuẩn bị tốt, giá điện hạt nhân có rẻ hơn các nước khác, nhưng cũng cao hơn giá điện chạy bằng than hay khí.
Ở châu Âu, giá thành 1 kWh điện hạt nhân hiện nay khoảng 5 cents USD (tương đương 850 VNĐ); ở Hoa Kỳ - khoảng 7 cents USD (1200 VNĐ) ; ở Nhật – khoảng 6 yên Nhật (1200 VNĐ). Đây là giá bán tại nhà máy, chưa phải là giá kinh doanh bán tới người tiêu dùng điện.
Nhà máy điện hạt nhân ở Hàn Quốc. Ảnh: evn.gov.vn.


Có lẽ vì lý do hiệu quả kinh tế và lý do an toàn mà các nước có nền công nghiệp điện hạt nhân lớn nhất đang có xu hướng dừng lại hoặc thoát ra, như Hoa Kỳ suốt từ năm 1978 đến nay không xây mới một lò nào; nhiều nước Tây Âu đang chuẩn bị rút lui có trật tự (Thụy Điển, Bỉ, Đức …) hoặc không hưởng ứng điện hạt nhân nữa (Anh, Ý, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha…).
Chỉ có 12 nước, phần lớn của châu Á, đang xây mới 32 lò hạt nhân. Vì sao có xu hướng này là điều chúng ta cần suy nghĩ, tìm hiểu để đi đến quyết định về điện hạt nhân ở Việt Nam.
Đối với các nước mới bắt đầu xây dựng điện hạt nhân như Việt Nam, giá thành sẽ cao hơn nhiều lần do phải tính đến các chi phí cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ban đầu, cho đào tạo nguồn nhân lực và cho việc thuê chuyên gia, tư vấn nước ngoài.
Bắt đầu từ con số không ở mọi hạ tầng cơ sở kỹ thuật và nhân lực cho điện hạt nhân, chủ đầu tư nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam cần phải làm rõ, với nguồn vốn đó, dự án đầu tư sẽ đạt được đến mức nào? Cụ thể, đó là mức đầu tư để xây dựng, đưa nhà máy thuộc thế hệ II vào vận hành và bảo đảm nguồn nhiên liệu cho nhà máy hoạt động trong bao lâu?
Mức đầu tư đó có tính đến chi phí cho việc xử lý và lưu giữ chất thải hạt nhân, giải quyết môi trường, xây dựng và duy trì sự sẵn sàng hoạt động của hệ thống ứng phó sự cố, bảo hiểm an toàn, tháo dỡ nhà máy sau khi hết hạn sử dụng hay không v.v.?
Riêng chi phí tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân là rất lớn. Thí dụ, 1 lò hạt nhân đầu tư hết 3 tỷ USD thì phải chuẩn bị khoảng 400-450 triệu USD cho việc tháo dỡ sau khi lò hết hạn sử dụng.
Việc tháo dỡ lại hết sức phức tạp và nguy hiểm vì chất phóng xạ, sau khi nhà máy thôi vận hành, phải đợi từ 25 đến 50 năm (tức là làm một nhà máy điện hạt nhân tức là đất nước bị kẹt gần một thế kỷ).
Chi phí tháo dỡ chiếm khoảng 15% kinh phí đầu tư và thường ít được các chủ đầu tư đưa vào dự toán khi xây dựng, vì phải 40-50 năm sau mới phải làm. Tuy vậy, để tính hiệu quả kinh tế của điện hạt nhân thì cả những chi phí loại này cũng phải được tính đến để hạch toán.
Với tất cả các chi phí đã được tính đủ, nguồn vốn đầu tư cụ thể sẽ được thu xếp như thế nào? Phương án kinh doanh, giá bán điện được tính cụ thể thế nào, có được xã hội chấp nhận hay không? Khả năng thu hồi vốn ra sao? Có thể khẳng định rằng, nếu tính đủ các chi phí liên quan thì giá thành điện hạt nhân ở Việt Nam sẽ không rẻ.
Ngoài ra, khi quyết định xây dựng điện hạt nhân, nếu để xảy ra sự cố hạt nhân gây ra nhiễm phóng xạ cho môi trường thì hậu quả nặng nề còn tác động đến nhiều ngành kinh tế khác của đất nước như du lịch, xuất khẩu nông sản, thủy hải sản.
Nhà máy điện hạt nhân, với những đặc thù và tính chất đặc biệt sẽ giữ vị trí nào trong quy hoạch phát triển điện của Việt Nam? Ảnh: Dalat.gov.vn
Bài toán về an ninh và an toàn hạt nhân
An ninh và an toàn hạt nhân vẫn là vấn đề lớn cần xem xét cẩn thận. Do đặc thù riêng biệt của điện hạt nhân, ràng buộc quốc tế đối với những nước tham gia cộng đồng sản xuất điện hạt nhân rất lớn.
Do tính chất nhạy cảm của chương trình điện hạt nhân, quyết định xây dựng nhà máy điện hạt nhân tức là chấp nhận sự giám sát và kiểm soát quốc tế trong suốt quá trình xây dựng, vận hành, xử lý nhiên liệu, lưu giữ chất thải và tháo gỡ; trong việc bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn, sẵn sàng ứng phó sự cố, bảo hiểm v.v.
Nếu làm điện hạt nhân, chúng ta sẽ phải phụ thuộc vào nước ngoài về thiết bị, phụ tùng, nhiên liệu, xử lý nhiên liệu đã qua sử dụng và có thể cả đội ngũ chuyên gia, nhân viên kỹ thuật.
Riêng về nguyên liệu hạt nhân uranium, bản thân Việt Nam không có sẵn, buộc phải nhập từ bên ngoài. Trong khi đó, theo một nghiên cứu được công bố trữ lượng Uranium trên thế giới hiện nay vào khoảng 15 triệu tấn, chỉ đủ để cung cấp cho khoảng 440 lò đang vận hành trong khoảng 60 năm. Thực tế trữ lượng có thể khai thác còn có thể ít hơn. Vì vậy, nếu nhiều nước cùng muốn phát triển điện hạt nhân và số lò tăng lên, thì có thể nhu cầu Uranium sẽ tăng vọt, giá thành sẽ cao lên nhiều lần và cuộc khủng hoảng Uranium nếu xảy ra sẽ trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng dầu mỏ hiện nay.
Nếu không có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, làm cẩn thận, vấn đề bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia khi thực thi các cam kết quốc tế, bảo đảm an toàn cho người dân, tránh cho đất nước khỏi rơi vào tình huống khó xử, bị cô lập quốc tế liên quan đến vấn đề hạt nhân sẽ là một câu hỏi lớn.

Mô hình sở hữu?
Khi đã cân nhắc cẩn thận, chuẩn bị kĩ lưỡng, chúng ta cũng cần giải đáp nhiều vấn đề khác.
Trước hết, nhà máy điện hạt nhân, với những đặc thù và tính chất đặc biệt sẽ giữ vị trí nào trong quy hoạch phát triển điện của Việt Nam? Sẽ là doanh nghiệp 100% của Nhà nước, hay sẽ là doanh nghiệp cổ phần (trong đó nhà nước nắm một tỷ lệ nhất định), hay sẽ là doanh nghiệp cổ phần hoàn toàn của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, hay sẽ là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài? Câu hỏi này cần được giải đáp, vì chỉ khi rõ chủ sở hữu mới có thể quyết định chính sách đúng đắn cho việc đầu tư xây dựng và quản lý nhà máy điện hạt nhân.
Theo phương án dự án nhà máy điện hạt nhân đang chuẩn bị trình Quốc hội xem xét phê duyệt, chủ đầu tư dự án là Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN). Như vậy, tại thời điểm hiện tại, chủ đầu tư là một tập đoàn kinh tế của Nhà nước, nhưng trong một vài năm tới tập đoàn này sẽ phải được cổ phần hóa theo lộ trình. Khi xây dựng dự án, chủ đầu tư cần trả lời câu hỏi: nhà máy điện hạt nhân sắp xây dựng sẽ thuộc mô hình sở hữu nào?
Nếu là doanh nghiệp nhà nước thì phải tổ chức quản lý thế nào để phù hợp với chính sách năng lượng đang triển khai và khả năng bố trí ngân sách của Nhà nước cho quy mô dự kiến của nhà máy điện hạt nhân có khả thi hay không?
Còn nếu là doanh nghiệp cổ phần thì là doanh nghiệp cổ phần với tỷ lệ góp vốn của Nhà nước là bao nhiêu, tỷ lệ góp vốn của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước là bao nhiêu?
Nếu là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì chính sách cụ thể sẽ như thế nào? Khả năng huy động vốn cho việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đối với từng phương án cụ thể như thế nào? Câu hỏi này chưa được đặt ra và giải đáp trong Báo cáo đầu tư.

Bài toán vốn
Theo kinh nghiệm quốc tế, tùy theo mức độ đầu tư, công nghệ lựa chọn, yêu cầu về an toàn, an ninh và khả năng nội tại của quốc gia (về nguồn nhân lực và mức độ sẵn sàng cơ sở kỹ thuật nội địa cho điện hạt nhân) v.v. mà suất đầu tư cho 1 kW điện hạt nhân tại thời điểm hiện tại dao động trong khoảng từ 3000 đến 4000 USD (và có thể còn cao hơn). Như vậy, để đầu tư 1 tổ máy công suất 1000 MW cần từ 3 tỷ đến 4 tỷ USD.
Theo phương án và quy mô mà chủ đầu tư đề xuất xây dựng hai nhà máy Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 với 4 tổ máy loại 1000 MW vào năm 2020, sơ bộ chúng ta cần khoảng 15,387 tỷ USD, tương đương 253.727 tỷ đồng (theo tỷ giá 1 USD= 16.490 VNĐ).
Theo tỷ giá tháng 3/2009 (1 USD=17.500 VNĐ) thì tổng vốn đầu tư đã là khoảng 269.272 tỷ đồng. Nói một cách khác, nếu Quốc hội đồng ý phê duyệt dự án do chủ đầu tư đề xuất vào năm 2009 và bắt đầu triển khai từ năm 2010, thì từ năm 2010 đến năm 2020, riêng cho dự án nhà máy điện hạt nhân mỗi năm phải chuẩn bị nguồn vốn bình quân khoảng 25.000 tỷ đồng (chưa tính đến trượt giá về đơn giá suất đầu tư và tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ do thời gian triển khai dự án kéo dài).
Theo đề xuất của chủ đầu tư, 25% nguồn vốn đó là vốn tự có của chủ đầu tư, 75% số còn lại là vốn vay thương mại. Khả năng vốn tự có của EVN có đáp ứng được không? khả năng vay thương mại có hiện thực không đều cần được thẩm định kỹ vì chưa thấy nói rõ trong Báo cáo đầu tư.
Mô hình nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. Ảnh: evn.gov.vn.
Đó là chưa tính đến nguồn vốn cần cho các dự án điện khác đã được phê duyệt mà hiện nay EVN cũng đang gặp rất nhiều khó khăn trong thu xếp vốn.
Trong điều kiện suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra và sự suy giảm phát triển kinh tế ở nước ta trong một vài năm tới ngày càng rõ nét thì khả năng huy động vốn như vậy liệu có khả thi?
Nhà nước hoặc các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh kế ngoài nhà nước, nhà đầu tư nước ngoài có thể góp vốn cho nhà máy điện hạt nhân theo quy mô và lộ trình dự kiến xây dựng?
Nếu không thể thu xếp đủ vốn theo tiến độ thì việc quyết định phê duyệt dự án cần phải cân nhắc kỹ từ thời điểm thực hiện, quy mô của dự án để tránh tình trạng “quy hoạch treo” và sẽ làm phát sinh tăng vốn đầu tư lên nhiều lần so với dự toán ban đầu.
Chúng ta cũng đã có bài học về việc không thu xếp được vốn, để dự án kéo dài làm tăng vốn đầu tư lên nhiều lần mà điển hình là dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất.

Mâu thuẫn với đề án tái cơ cấu?
Ngoài ra, mới đây Bộ Công thương đã xây dựng đề án thiết kế tổng thể thị trường điện cạnh tranh và tái cơ cấu ngành điện trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt. Đề án này đưa ra lộ trình hình thành thị trường điện, giai đoạn 2009 - 2014 là thời gian thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh.
Để thực hiện được bước đi này, giới chuyên gia cho rằng, các nhà máy điện thuộc EVN phải tách ra thành các đơn vị phát điện độc lập, không có chung lợi ích kinh tế với người mua duy nhất (hiện vẫn là EVN), đồng thời là đơn vị truyền tải và đơn vị điều hành giao dịch thị trường điện.
Ngoài ra, công suất lắp đặt của từng đơn vị phát điện này cũng không được vượt quá 25% công suất lắp đặt của toàn hệ thống.
Hiện tại, công suất lắp đặt của toàn hệ thống vào khoảng 15.000 MW và phần các nhà máy do EVN nắm giữ 100% vốn hay có cổ phần chi phối, hiện chiếm tỷ trọng hơn 60%.
Việc giao thêm 2 nhà máy điện hạt nhân với tổng công suất 4.000 MW cho EVN sẽ càng làm tăng tỷ trọng công suất phát điện do EVN nắm giữ trong toàn hệ thống liệu có phù hợp với đề án.

Ts. Nguyễn Quốc Anh

Đọc thêm!

Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và những câu hỏi còn bỏ ngỏ

Không thể xem nhà máy ĐHN như một món hàng thông thường có thể mua sắm dễ dàng, ai cần thì sắm, cần bao nhiêu sắm bấy nhiêu, mà quên rằng đây là một công nghệ rất phức tạp, quy mô đồ sộ, lại chứa đựng không ít rủi ro, nhạy cảm, vốn gây chia rẽ thế giới dai dẳng trong nhiều thập kỷ qua.


Tại kỳ họp QH lần này, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận sẽ được đặt lên bàn nghị sự. Dự án được xem có ý nghĩa chiến lược trong cân bằng năng lượng phục vụ phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Và đây cũng là một dự án không dễ nghiên cứu đối với các ĐBQH. Vì sao phải xây dựng nhà máy điện hạt nhân vào thời điểm này? Nếu xây dựng thì những yếu tố cần và đủ là gì? Phải bảo đảm những yêu cầu gì về nguồn vốn đầu tư, về công nghệ, về độ an toàn và nhiều vấn đề phát sinh khác... Bài viết thể hiện góc nhìn riêng của GS Phạm Duy Hiển phần nào sẽ giúp độc giả giải đáp những câu hỏi này.

Nhà máy điện hạt nhân (Ảnh minh họa)

Điện hạt nhân trên bàn nghị sự 
Báo cáo đầu tư (BCĐT) Dự án điện hạt nhân (ĐHN) Ninh Thuận đã được Chính Phủ thông qua và trình ra Quốc Hội xem xét trong kỳ họp cuối năm 2009, theo đó hai nhà máy ĐHN với bốn lò phản ứng công suất 4x1000 MW sẽ xuất hiện vào năm 2020 - 2022. Cũng theo BCĐT, bốn lò nữa sẽ tiếp tục đưa vào vận hành từ năm 2023 đến 2025. Một tốc độ khởi động ĐHN ồ ạt như thế chưa hề có tiền lệ trên thế giới. Với 8000 MW ĐHN vào 2025, Việt Nam sẽ đặt chân vào câu lạc bộ 15 nước hàng đầu thế giới về ĐHN. Để thuyết phục Chính phủ và Quốc hội, BCĐT đưa ra mấy nhận định cơ bản sau đây: 
·         Nước ta rất thiếu điện, dự báo nhu cầu điện năng vào năm 2020 là 380 tỷ kWh, gấp bốn lần năm 2010, nhưng than, dầu, thủy điện đến lúc này đều cạn kiệt,
·         ĐHN bảo đảm an ninh năng lượng cho đất nước,
·         ĐHN rất an toàn,
·         Giá thành ĐHN chấp nhận được, tổng vốn đầu tư cho bốn tổ máy đầu tiên khoảng 11 tỷ USD.
·         Kế hoạch hoàn toàn khả thi.
BCĐT đi đến những nhận định trên qua thông tin từ rất nhiều nước trên thế giới, trên mạng và qua những chuyến tham quan được các hãng chế tạo nhà máy ĐHN nước ngoài bố trí. Nhưng vì nguồn thông tin phiến diện, được chọn lọc có chủ đích, không được xử lý từ góc độ khoa học, nên những nhận định trên đây đều không ổn. 
Không thể xem nhà máy ĐHN như một món hàng thông thường có thể mua sắm dễ dàng, ai cần thì sắm, cần bao nhiêu sắm bấy nhiêu, mà quên rằng đây là một công nghệ rất phức tạp, quy mô đồ sộ, lại chứa đựng không ít rủi ro, nhạy cảm, vốn gây chia rẽ thế giới dai dẳng trong nhiều thập kỷ qua. Cũng phải đạt đến một trình độ KH-CN nhất định mới chinh phục được nó. Cho nên cho đến nay mới chỉ 31 nước có nhà máy ĐHN. 
Chúng ta cần phải làm ĐHN, và cọc mốc 2020 đưa ĐHN lên lưới là một chủ trương cần ra sức phấn đấu thực hiện. Ở cọc mốc đó có mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa mà đất nước đang hướng tới. Nhưng tám lò phản ứng cỡ lớn vào năm 2025 không phải là biểu hiện của một nước Việt Nam công nghiệp hóa - hiện đại hóa nếu chúng ta chỉ sở hữu mà không làm chủ chúng. 
Câu hỏi quan trọng giờ đây là làm ĐHN với tư thế nào, theo con đường nào? Muốn trả lời câu hỏi này, thiết nghĩ nhà nước cần phải có đầy đủ thông tin khách quan và khoa học. Tránh né phản biện đa chiều để những tiếng vỗ tay lấn át sẽ tạo ra không khí chủ quan, coi thường tri thức khoa học-công nghệ, coi thường pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật, rất tai hại.
Những sự cố ĐHN lớn xảy ra trên thế giới đều do con người và quản lý gây ra, nhân tố kỹ thuật chỉ đóng góp một phần. Lắng nghe ý kiến phản biện không phải để tháo lui, mà để ra các quyết sách đúng đắn cho đất nước, tạo ra đủ hành trang để bước lên quỹ đạo ĐHN. 

Thiếu điện hay lãng phí điện 
Thiếu điện nghiêm trọng là lý do tường minh được nêu ra để phát triển ồ ạt ĐHN. BCĐT dự báo nhu cầu điện năng vào năm 2020 là 380 tỷ kWh, gấp bốn lần năm 2010. Muốn thế, từ nay đến đó phải bảo đảm tăng trưởng điện năng trung bình khoảng 17%/năm, vượt quá kỷ lục 15%/năm cũng chính do ta nắm giữ (xem cột 2 bảng 1). Hậu quả là chúng ta lãng phí điện vào loại hàng đầu trên thế giới. Năm 2005 tiêu thụ 01 kWh ta chỉ làm ra 0,89 USD, trong khi Inđônêxia và Philippin làm ra 2 USD, một số nước khác còn nhiều hơn (xem cột 3, bảng 1). 




Bảng 1 Sử dụng điện ở một số nước châu Á căn cứ trên thống kê của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) và UNDP

Tốc độ tăng điện năng
2000-2006, %/năm
Hiệu quả sử dụng
USD/kWh, 2005
Nhật Bản
0.8
4,6
Đài Loan
3,9

Singapore
4,4
3,4
Philippines
4.6
2,1
Ấn Độ
5,7
1,7
Indonexia
6,3
2,7
Malaysia
7,1
1,6
Thái Lan
7,2
1,5
Hàn Quốc
7,7
2,2
Trung Quốc
13,7
1
Việt Nam
14,4
1,15

Những thông tin trên bảng 1 cho thấy càng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tốc độ tăng trưởng điện năng càng giảm và hiệu quả sử dụng điện càng tăng. Chúng ta đang lạc hậu hơn ai hết, lại muốn tụt hậu thêm. 
Sử dụng điện kém hiệu quả là do nền kinh tế có khuyết tật. Nếu dám nhìn thẳng vào khuyết tật để nâng hiệu quả sử dụng điện lên, chỉ cần ngang bằng với những nước Philippines, Inđônêxia, cũng đủ để chúng ta cắt giảm hẳn một nửa số nhà máy điện xây mới trước 2020. 

Điện hạt nhân  và an ninh năng lượng 
BCĐT cho rằng ĐHN là giải pháp bảo đảm an ninh năng lượng. Song với cách làm như BCĐT thì chẳng những an ninh năng lượng không được bảo đảm mà độc lập tự chủ còn bị nguy cơ. Đơn giản là vì chẳng có bất cứ chi tiết nào trong nhà máy ĐHN do chúng ta làm ra, và chưa biết đến bao giờ chúng ta mới hết phụ thuộc vào người nước ngoài, ngay cả khâu xây dựng và vận hành nhà máy, nhất là với tốc độ ĐHN ồ ạt như BCĐT đề xuất. Có gì bảo đảm chắc chắn nhiên liệu hạt nhân sẽ được cung cấp kịp thời cho hàng chục nhà máy định đưa vào vận hành từ 2020 đến 2030?
Ai dám chắc các thanh nhiên liệu đã cháy với hoạt độ phóng xạ rất cao sẽ được mang đi?
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đều đối mặt với vấn đề an ninh năng lượng và đều thành công khi xem ĐHN là một giải pháp. Nhưng rất khác ta, họ nhập công nghệ và nội địa hóa nó nhờ biết cách phát triển lực lượng hạt nhân ngày càng hùng hậu, từ đó tiến lên làm chủ công nghệ, và tìm cách bảo đảm nguồn cung cấp nhiên liệu ổn định lâu dài. 
Khi bàn đến an ninh năng lượng ta không nên quên năng lượng tái tạo. Tại sao với thiên nhiên ưu đãi, nắng gió quanh năm, mà năng lượng tái tạo vô tận với công nghệ đơn giản đầy thân thiện lại không được xem là một trong những giải pháp bảo đảm an ninh năng lượng lâu dài cho đất nước?
Năng lượng tái tạo hiện đang còn đắt, nhưng sẽ ngày càng rẻ hơn theo xu thế chung ngày càng phổ biến trên thế giới. Nếu đem hàng chục tỷ đô la của dự án ĐHN Ninh Thuận đầu tư vào năng lượng tái tạo thì phương án nào hiệu quả và đỡ rắc rối hơn? Cứ xem nước Đức từng dẫn đầu thế giới về công nghệ ĐHN, nơi ươm tạo ra các lò phản ứng thế hệ III+, IV cho thế kỷ 21, họ vẫn sẵn sàng từ bỏ con đường này để dựng lên những cánh quạt gió, những tấm pin mặt trời trên khắp cả nước. 

Tính khả thi
Những ai có chút  ít trải nghiệm về hạt nhân-phóng xạ ắt sẽ  thấy ngay một kế hoạch như BCĐT đề ra hoàn toàn không khả thi. Ngay những cường quốc hạt nhân như Mỹ, Nga, Trung Quốc cũng không phiêu lưu như thế. Phần Lan, một nước rất tiên tiến về khoa học-công nghệ, từng nhiều năm khai thác lò phản ứng VVER thế hệ II của Nga đạt hệ số phụ tải kỷ lục 94%, song để bảo đảm an toàn hơn, họ chấp nhận đầu tư cao gấp bội để nhập lò phản ứng thế hệ III EPR của Pháp, một trong ba lò phản ứng đang xây dựng ở châu Âu. Nhưng trong quá trình xây dựng rất nhiều vi phạm quy chuẩn kỹ thuật, khuyết tật đã bị phát hiện, phải phá đi làm lại. Vì thế đến nay nhà máy đã trễ tiến độ hơn ba năm, giá thành đội lên hai lần, mà cuộc tranh chấp bồi thường thiệt hai giữa hai bên mua-bán vẫn chưa ngã ngũ. 
Tiên tiến và đầy kinh nghiệm như Phần Lan, lại chỉ xây một lò, mà ỳ ạch như thế, liệu chúng ta có phép thần nào đưa tám lò vào hoạt động trong sáu năm? Trong khi hiện nay các cơ sở nghiên cứu và triển khai của ta đang trong quá trình thoái trào, ta không đủ chuyên gia để tự giải quyết bất cứ những vấn đề chuyên sâu nào liên quan đến ĐHN.
Rất ít người có thể giảng dạy môn hạt nhân, nhất là công nghệ ĐHN, ở cấp đại học. Các cơ sở đào tạo hạt nhân luôn trong tình trạng ế ẩm, các thầy dạy chay, chất lượng đầu vào đầu ra đều rất thấp. Hệ thống pháp quy và thực thi pháp luật hạt nhân mới bắt đầu chập chững.
Theo báo cáo của Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân (VARANS), chúng ta đang còn thiếu nhiều quy định cụ thể để triển khai dự án ĐHN, “để có ĐHN vào năm 2020, trong ba năm 2009-2011 cần phải ban hành 45 văn bản pháp quy, và phải có ít nhất 50 người để làm việc này”. 

An toàn 
BCĐT cho rằng những nhà  máy ĐHN ở nước ta sẽ bảo đảm an toàn và giá thành điện năng có thể chấp nhận được với các lò phản ứng “thế hệ II trở lên”. Trên thực tế, ĐHN chưa an toàn, mà cũng chính vì vậy nên người ta phải đầu tư công sức để nâng cấp các lò phản ứng thế hệ II hiện nay lên thế hệ III và IV.
Những thế hệ lò mới này có tính an toàn thụ động (khi xuất hiện hiện tượng có thể dẫn đến mất an toàn tự nó sẽ có cơ chế hóa giải kịp thời), đủ kiên cố để nhốt các chất phóng xạ không cho thoát ra môi trường khi xảy ra sự cố nóng chảy vùng hoạt, và chống chịu được các va đập từ bên ngoài như máy bay rơi, động đất cấp tám trở lên. Nhưng lò thế hệ III vẫn không làm nản lòng những kẻ chủ mưu khủng bố và phá hoại. Lò thế hệ IV sẽ loại trừ được khả năng sử dụng nhiên liệu đã cháy để làm vũ khí hạt nhân. 
Đối với Việt Nam, nhập lò phản ứng thế hệ thứ ba trở lên là điều kiện tiên quyết để khởi động chương trình ĐHN. Điều này cần được Quốc Hội ra quyết định dứt khoát, dù biết chắc nó sẽ đội giá thành lên rất nhiều. Với lò EPR thế hệ III đang xây ở Phần Lan, suất đầu tư đã lên đến 4800 USD/kW. Nhiều nguồn thông tin cho biết suất đầu tư lò thế hệ III AP-1000 của Mỹ cũng không dưới 5000 USD/kW.
An toàn và kinh tế là hai mục tiêu luôn đối kháng nhau, song trong bất cứ trường hợp nào an toàn vẫn phải đặt lên trên hết. Cho nên không thể vì chạy theo mục tiêu kinh tế mà phải hạ cấp lò phản ứng xuống thế hệ II như BCĐT đề xuất. Nghĩa là tổng đầu tư cho bốn tổ máy đầu tiên sẽ phải lên đến quá 16 tỷ, chứ không phải 11 tỷ USD như trong BCĐT. 
Để bảo đảm tính nghiêm túc của dự án ĐHN, thiết tưởng nhà đầu tư phải long trọng khẳng định con số tổng đầu tư này trước Quốc Hội và dân chúng. 
Nhưng sử dụng lò  thế hệ III trở lên mới chỉ giảm bớt một phần rủi ro. An toàn ĐHN bao gồm nhiều khâu công nghệ cả bên trong lẫn bên ngoài lò phản ứng, mức độ sự cố trải rộng ra bảy cấp từ thấp lên cao. Ngay trong điều kiện lò hoạt động bình thường, hàng nghìn nhân viên làm việc quanh lò phải trực tiếp chịu phóng xạ, hàng vạn dân chúng sẽ nằm trong vùng chịu tác động bởi chất phóng xạ. Họ được bảo vệ bằng phương tiện kỹ thuật và Luật Năng lượng Nguyên tử sao cho liều chiếu xạ luôn dưới mức cho phép. Nhưng “dưới mức cho phép” không có nghĩa là an toàn. Khoa học đã chứng minh rằng liều phóng xạ thấp bao nhiêu cũng tác hại đến sức khỏe con người, ai tiếp xúc với nó cũng đều phải chịu rủi ro, mức độ càng cao khi liều chiếu càng lớn. BCĐT quên mất chuyện này. 

Chất thải
Lò phản ứng tạo ra hai loại chất thải phóng xạ. Loại có hoạt độ thấp sau khi tạm giữ trong nhà lò một thời gian sẽ chuyển đến các nghĩa địa chôn cất lâu dài. Xử lý loại chất thải này không khó lắm. Đáng lo hơn là loại chất thải hoạt độ cao, gồm các thanh nhiên liệu đã cháy. Chúng được mang ra khỏi lò đem ngâm trong các bể chứa để được làm nguội bằng nước trong hàng chục năm, chờ phân rã bớt phóng xạ, sau đó mới tính đến chuyện vận chuyển trở lại cho hãng cung cấp. Trong chất thải hoạt độ cao này có các chất siêu urani sống hàng nghìn năm, lại rất độc hại, gây hiểm họa lâu dài cho bao nhiêu thế hệ tương lai. Xử lý chất thải phóng xạ hoạt độ cao, là thách thức rất nan giải mà ĐHN hầu như chưa có phương án giải quyết, và cũng đồng thời là tâm điểm chống đối ĐHN, vì đây là nguy cơ mất an toàn, lan truyền vũ khí hạt nhân và bom bẩn phóng xạ. 
Với một tổ máy 1000 MW ở Ninh Thuận, lượng phóng xạ hàng năm sinh ra do các thanh nhiên liệu đã cháy sẽ gấp 1600 lần những gì hiện có bên trong lò phản ứng Đà Lạt đã hoạt động hơn 25 năm, ước tính lên đến ngót một triệu curi. Từ đó nhân lên cho 8 lò (và sẽ còn nhiều hơn nữa), mỗi lò hoạt động hàng chục năm, ta sẽ được một con số “khủng khiếp”.
Trên nguyên tắc, nước cung cấp lò sẽ mang đi những thanh nhiên liệu đã cháy sau vài chục năm ngâm giữ chúng tại chỗ, nhưng câu chuyện này cũng hết sức rắc rối, khó lường. Nên nhớ rằng chỉ cần 01 curi chất phóng xạ có thể đủ gây chết người khi nó không được bảo quản tốt. Đành rằng lượng phóng xạ khổng lồ đó được nhiều tầng bảo vệ nghiêm ngặt, nhưng ai dám khẳng định chúng sẽ an toàn tuyệt đối trước mọi thiên tai địch họa và sự bất cẩn của con người. Bảo quản một lượng phóng xạ khổng lồ như vậy chẳng khác nào mang về nhà một bầy hổ. Liệu cái cũi sắt nhốt chúng có làm cho chủ nhà và hàng xóm ngủ yên không? 

Nhân lực cho ĐHN và vấn đề đào tạo chuyên gia 
Địa điểm dự kiến xây nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận. Ảnh: taichinh.saga.com

ĐHN có an toàn hay không phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ vận hành và hệ thống quản lý, quan trọng nhất là bộ phận chuyên gia đầu đàn. BCĐT chẳng những không dám nhìn thẳng vào hiện trạng thiếu chuyên gia nghiêm trọng của chúng ta, mà không vạch ra được con đường dẫn đến những bước đột phá. Những ai có chút ít kinh nghiệm về hạt nhân-phóng xạ sau khi đọc BCĐT sẽ hiểu ngay rằng chúng ta sẽ dựa hoàn toàn vào người nước ngoài trong những quyết định chủ yếu nhất về ĐHN. 
Không nước nào sẵn lòng giúp ta đào tạo chuyên gia, kể cả những nước sắp cung cấp nhà máy cho ta, bởi ĐHN là lãnh vực rất nhạy cảm. Vậy chỉ còn cách thông qua chà xát với những bài toán cụ thể trong chương trình ĐHN để đào tạo chuyên gia, cách làm “learning by doing” của các nước đi sau trên thế giới. Ba mươi năm trước đây, ngành hạt nhân Việt Nam cũng theo cách này để làm chủ lò phản ứng Đà Lạt. Chủ trương nhập ồ ạt hàng loạt nhà máy ĐHN có nghĩa là khước từ con đường này. 

Chấp nhận rủi ro để giảm thiểu rủi ro
Làm ĐHN là chấp nhận rủi ro như khi ta chấp nhận rủi ro (có thể nằm trong số 30 ca tử vong hằng ngày) để ngồi lên chiếc xe khách chạy trên quốc lộ. Theo tính toán cho lò phản ứng thế hệ II, sai sót kỹ thuật dẫn đến nóng chảy nhiên liệu có thể xảy ra trung bình 01 lần khi có 1000 lò chạy trong 100 năm. Nhưng trên thực tế, tai nạn ở Three Mile Island, Mỹ, xảy ra vào năm 1979, sớm hơn tính toán trên đây rất nhiều, khi mới có hơn một trăm lò chạy hơn chục năm. 
Tai nạn “đến sớm” như vậy là do con người và quản lý gây ra. Chủ quan, bất cẩn, là kẻ thù không đội trời chung với ĐHN, nó có thể làm tê liệt cả hệ thống, chẳng những xem thường mọi quy trình quy phạm lò phản ứng mà còn dửng dưng khi sự cố xảy ra. Tiếng nổ phá tung tòa nhà lò phản ứng Chernobyl (nổ do hydro) phải “mất” ba ngày mới đến tai Tổng Thống Gorbachev, trước đó đám mây phóng xạ đã kéo quá bờ Đại Tây Dương. Không phải Liên Xô thời ấy không đủ chuyên gia giỏi, nhưng chủ quan và thiếu công khai minh bạch trong toàn hệ thống đã dẫn đến thảm kịch. Với lò thế hệ III có khả năng nhốt chặt chất phóng xạ lại bên trong nhà lò, những thảm họa như Chernobyl sẽ rất khó xảy ra. Nhưng đừng quá lạc quan để rồi chủ quan. Con người có thể làm ra những chuyện rất bất ngờ! 
Rủi ro về ĐHN có  thể giảm thiểu giống như chúng ta có thể  giảm số ca tử vong hằng ngày do tai nạn giao thông nhờ nâng cao ý thức của  người đi đường, bằng luật pháp nghiêm minh và bằng cách cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông. Cũng vậy, quyết định làm ĐHN là chấp nhận rủi ro để cả nước tìm cách giảm thiểu rủi ro.
Tổ chức kinh doanh ĐHN và nhà nước phải sòng phẳng với công chúng trong chuyện này. Chẳng thế mà theo Luật Năng lượng nguyên tử, nhà nước phải tổ chức ra hệ thống ứng phó tai nạn hạt nhân khẩn cấp, thường xuyên diễn tập, và dành hẳn ra một khoản tiền “đặt cọc” khá lớn để bảo đảm cho người dân “yên tâm” sẽ được bồi thường thiệt hại khi xảy ra tai nạn.
Năng lực của đội ngũ chuyên gia và quản lý là nhân tố chủ yếu bảo đảm giảm thiểu rủi ro. Chăm lo phát triển đội ngũ này là cách tốt nhất để công chúng tin tưởng và ủng hộ ĐHN, chứ không phải tuyên truyền một chiều. 
Với nguyên tắc an toàn trên hết, chỉ có thể bắt đầu dự án ĐHN khi có đầy đủ văn bản pháp luật, quy chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn hạt nhân để không ai có thể đứng trên luật pháp.
Phải có đội ngũ chuyên gia để người Việt Nam quyết định công việc của nước Việt Nam. Năm 2020 chỉ nên xem là cọc mốc để phấn đấu, từ đó tính lùi để biết những việc cần xúc tiến gấp, quyết không thể xem là cọc mốc kế hoạch, phải thực hiện cho kỳ được, ngay cả khi điều kiện không cho phép. 
Trong quá trình thực hiện dự án lại phải có đủ thời gian để  đội ngũ chuyên gia trong nước trưởng thành qua công việc và từng bước làm chủ công nghệ, hạ tầng cơ sở pháp luật được thử thách, hệ thống quản lý công nghiệp dần dần làm quen với một lãnh vực hoàn toàn mới là ĐHN. Làm như thế qua tổ máy thứ nhất, sau đó sẽ bắt đầu tổ máy thứ hai. Làm quyết liệt, nhưng thận trọng. Một chương trình ĐHN ồ ạt với tám lò phản ứng đưa vào vận hành trong giai đoạn 2020-2025 chẳng những hoàn toàn không khả thi mà chắc chắn sẽ để lại những hậu quả nặng nề cho đất nước.

Phạm Duy Hiển 

Đọc thêm!

S.O.S. sản xuất điện hạt nhân với tác phong “tiền công nghiệp”

Ít ai có thể phủ nhận sự cần thiết của việc phát triển điện hạt nhân nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Tuy vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong danh sách quốc gia điện hạt nhân hiện nay, đại đa số là nước công nghiệp.


Xu thế chung: sẽ phải sản xuất điện hạt nhân
Cho đến nay, gần như ai cũng biết rằng điện hạt nhân là một dạng năng lượng sạch, bởi việc sản xuất ra nó phát thải lượng khí CO2 thấp, không gây hiệu ứng nhà kính, đồng thời giúp tiết kiệm tài nguyên khoáng sản vốn đang cạn kiệt dần trên phạm vi toàn thế giới.
Ở Việt Nam, nguồn năng lượng sơ cấp cho sản xuất điện (than, dầu, khí đốt) cũng đang theo xu hướng cạn dần. Có chuyên gia bàn tới khả năng phát triển năng lượng tái tạo (mặt trời, gió), bởi Việt Nam có biển và khí hậu quanh năm nhiều giờ nắng.
Tuy vậy, theo ông Nguyễn Minh Duệ - chuyên gia kinh tế năng lượng ĐH Bách khoa Hà Nội - thì kỹ thuật sản xuất điện từ gió và năng lượng mặt trời rất phức tạp, giá thành cao, chưa kể đầu vào không ổn định; nhiều nước trên thế giới được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu mà cũng chưa sản xuất được lượng điện thật đáng kể từ năng lượng tái tạo.
Trong bối cảnh đó, điện hạt nhân nổi lên như một giải pháp tất yếu cho Việt Nam để thoát khỏi tình trạng thiếu hụt năng lượng.
Vấn đề là thời điểm
Theo số liệu của Hiệp hội Hạt nhân Thế giới (WNA), hiện nay trên thế giới có 56 nước xây dựng lò năng lượng hạt nhân với mục đích nghiên cứu khoa học, phục vụ trong y tế; và 30 nước sản xuất điện hạt nhân thương mại.
30 nước này điều hành khoảng 436 lò phản ứng thương mại với tổng công suất 372.000 MW. Tổ chức WNA đánh giá đó như một nguồn cung cấp điện ổn định với hiệu quả ngày càng gia tăng.
Sản xuất điện từ các nguồn năng lượng sơ cấp trên thế giới, năm 2006.
Nguồn: legalplanet.files.wordpress.com

Sức hấp dẫn của điện hạt nhân, do vậy, đang thu hút thêm nhiều nước có kế hoạch phát triển điện hạt nhân, như Italy, Ai Cập, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam.
Tuy thế, nhìn vào danh sách 30 quốc gia có lò năng lượng thương mại, ta sẽ thấy đặc điểm chung: Đa số là các nền kinh tế công nghiệp ở phương Tây - Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Phần Lan, Hungary... Nước đang phát triển cũng góp mặt nhưng số này chỉ là thiểu số: Trung Quốc, Ấn Độ.
Sở dĩ như vậy là vì sản xuất điện hạt nhân đòi hỏi hai yếu tố then chốt: vốn, và nhân lực.
Vấn đề vốn thì đã rõ: Để việc sản xuất được an toàn thì phải sử dụng công nghệ hiện đại. Thế hệ công nghệ càng hiện đại thì càng đắt. Từng có chuyên gia Trung Quốc khuyên Việt Nam trước mắt nên sử dụng dạng công nghệ phổ biến cho rẻ tiền, giảm giá thành điện. Đây là điều cần cân nhắc, vì lựa chọn giải pháp công nghệ sẽ liên quan chặt chẽ tới phương hướng xử lý chất thải hạt nhân và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng sau này.
Vấn đề nhân lực còn đau đầu hơn, bởi chúng ta thiếu đội ngũ nhân lực cho việc sản xuất điện hạt nhân, cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ông Duệ cho biết: "Từ nay đến 2020 còn 11 năm nữa. Nếu muốn đúng 2020 chạy tổ máy đầu tiên thì từ bây giờ đã và đang phải chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật và con người mạnh mẽ lắm rồi, tôi sợ không kịp".

Chưa có "văn hóa an toàn hạt nhân"
Để triển khai các dự án điện hạt nhân, chúng ta cần đội ngũ nhân lực rất lớn, gồm hàng nghìn chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý, và công nhân. Theo ước tính của một số nhà khoa học, cần ít nhất 6.000 người cho các dự án đầu tiên. Trong khi đó, những chuyên gia từng được đào tạo về điện nguyên tử không có bao nhiêu, đến nay đều đã có tuổi hoặc đi làm nghề khác cả.
Như vậy đủ thấy sự thiếu hụt trầm trọng về số lượng. Còn về chất lượng, cũng ông Duệ cho biết: "Đào tạo thì dĩ nhiên là phải đưa ra nước ngoài theo các chương trình hợp tác, chứ Việt Nam mình đào tạo về điện hạt nhân làm sao được?".
Nhưng điều đáng lo ngại hơn cả không phải là chuyện trình độ chuyên môn, trình độ kỹ thuật của đội ngũ nhân lực; mà là một số phẩm chất người lao động Việt Nam lâu nay luôn luôn thiếu: tác phong công nghiệp, ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật.
Và đó chính là lý do lớn nhất giải thích vì sao danh sách những quốc gia điện hạt nhân lại gồm chủ yếu là nước công nghiệp. Việc sản xuất điện hạt nhân chưa phù hợp với những nền kinh tế nơi ý thức của người dân còn thấp, tư duy tiểu nông đè nặng, tác phong làm việc lề mề và đại khái, vô trách nhiệm.
Điện hạt nhân thích hợp với những quốc gia có nền tảng văn minh công nghiệp (như Mỹ, Canada, Pháp), hoặc nơi người dân có ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương cao (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc).
Ông Nguyễn Trường Giang, nguyên đại diện của Việt Nam tại Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), khái quát hóa vấn đề thành việc thiếu một "văn hóa an toàn hạt nhân".
"Vận hành nhà máy điện hạt nhân không thể như sản xuất nông nghiệp, cứ du di một tí cũng chẳng sao" - ông Giang nói. "Công nhân làm việc mà tầm trưa cứ vội đi ăn là chết rồi. Có thể nhiều khi họ tặc lưỡi, tưởng rằng bỏ qua một thao tác cũng chả sao, nhưng ai ngờ rủi ro nằm ở chính chỗ đó".
Người ta đã xác định được rằng thảm kịch Tchernobyl (26/4/1986) xảy ra do việc thiết kế không đảm bảo, và còn do công nhân vận hành không đúng theo hướng dẫn. Tai biến hạt nhân khủng khiếp nhất trong lịch sử này đã thải ra một lượng bụi phóng xạ nhiều gấp bốn lần bụi phóng xạ từ vụ Mỹ ném bom Hiroshima, làm hàng nghìn người tàn lụi vì nhiễm phóng xạ.
Đến nay, ba nước có liên quan - Nga, Ukraina và Belarus - vẫn phải tốn kém rất nhiều chi phí cho hoạt động khử độc môi trường và chăm sóc y tế cho các nạn nhân.
Tất cả xuất phát từ sự bất cẩn của con người!
Không thể vội vàng
Từ những phân tích của các chuyên gia, có thể rút ra một ý kiến chung đối với việc sản xuất điện hạt nhân ở Việt Nam: Phát triển điện hạt nhân là việc cần làm, vấn đề là thời điểm và phải cân nhắc hết sức cẩn thận khi xác định thời điểm đó.
Triển khai các dự án điện hạt nhân trong bối cảnh nhân lực qua đào tạo chưa có, luật pháp chưa được kiện toàn, nhất là chưa hình thành tác phong công nghiệp, "văn hóa an toàn hạt nhân", có lẽ là ý định hơi phiêu lưu.
Theo ông Nguyễn Minh Duệ, ĐH Bách khoa Hà Nội, thì mốc 2020 vận hành lò phản ứng đầu tiên là quá sớm, nên xem xét lại. "Còn nếu chúng ta cứ xây dựng một kế hoạch cứng, để rồi tới lúc đó không làm xong được, thì hậu quả là càng thiếu hụt điện hơn, bởi vì nguồn lực để xây dựng các nhà máy thủy điện, nhiệt điện... đều đã dồn cho điện hạt nhân cả rồi".
Ông Nguyễn Trường Giang thì cho biết, đối với một quốc gia lần đầu tiên xây dựng nhà máy điện hạt nhân thì lộ trình xây dựng nhà máy thông thường kéo dài từ 15 đến 17 năm, bắt đầu từ khi chính phủ nước đó ra quyết định phát triển điện hạt nhân cho đến khi có những kw điện hạt nhân đầu tiên. Như vậy, rõ ràng chúng ta đang đẩy tiến độ lên quá nhanh.
Để bước chân vào danh sách các quốc gia điện hạt nhân, Việt Nam có rất nhiều việc phải làm: nghiên cứu để xác định một lộ trình hợp lý; đào tạo nhân lực; xây dựng hệ thống luật pháp về an toàn hạt nhân và bảo vệ môi trường; tham khảo và tuân thủ chặt chẽ luật quốc tế về năng lượng hạt nhân...
Song song với quá trình đó là việc đẩy mạnh tiết kiệm năng lượng, tăng hiệu quả sử dụng điện, và đào tạo để hình thành văn hóa làm việc có trách nhiệm, kỷ luật ở người dân.
Trong chuyện đào tạo này, cũng rất cần phổ cập thông tin để dân chúng hiểu về điện hạt nhân thay vì... sợ, hay có thái độ "tẩy chay" nó. Bởi lẽ, nếu tuân thủ đầy đủ và nghiêm túc các quy định về an toàn hạt nhân, thì điện hạt nhân thật ra lại hết sức an toàn.
So sánh một cách đơn giản, điện hạt nhân cũng như di chuyển bằng máy bay: Các nghiên cứu khoa học cho thấy đi máy bay thực chất an toàn gấp 800 lần đi ôtô, và càng an toàn hơn đi xe máy. Chỉ có điều, các tai nạn hàng không tuy ít nhưng khi xảy ra lại mang tính hủy diệt (cũng như sự cố điện hạt nhân) và thường được truyền thông đặc biệt lưu tâm, nên nhiều hành khách sợ đi lại bằng máy bay là vì vậy.
Ngày 7/11, bản "Báo cáo Dự án đầu tư Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận" sẽ được đệ trình tại kỳ họp thứ 6, QH khóa 12. Hy vọng rằng những người chịu trách nhiệm sẽ đưa ra quyết định hợp lý, vì lợi ích của dân chúng hiện nay và cả các thế hệ mai sau.
Tác giả: HOÀNG THƯ

Đọc thêm!