Trang

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

Dạy và học sử: Đâu chỉ là vấn đề giáo dục

Lịch sử là một thứ vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Một thế hệ mà sự hiểu biết về lịch sử nước nhà được thể hiện bằng những con số 0 tròn trĩnh thì không khác nào con người sống mà không hề biết đến tổ tông, gốc tích của mình. Đây mới là điều đáng sợ nhất.

Người lớn xem thường lịch sử, trách gì học sinh?
Không một chút do dự khi trả lời trước báo chí, vị thuyền trưởng của con thuyền giáo dục nước nhà, ông Phạm Vũ Luận, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng hàng ngàn điểm 0 môn Lịch sử trong đợt thi đại học vừa qua là “điều bình thường”. Câu trả lời này đã khiến dư luận hết sức ngỡ ngàng. Tuy nhiên phát biểu của ông không phải hoàn toàn vô lý.
Quả là “bình thường” thật khi kết quả năm nay cũng tương tự như nhiều năm trước. Thực trạng này đã phản ánh đúng những gì dư luận và nhiều chuyên gia về giáo dục, lịch sử đã lên tiếng trong thời gian qua. Đó là đang tồn tại nhiều bất cập trong việc dạy và học môn Lịch sử trong chương trình phổ thông nói riêng và những cấp bậc khác nói chung.
Sự việc không dừng lại ở đó, môn Lịch sử đã bị xã hội ‘ghẻ lạnh’ trong một thời gian dài. Đã từ lâu, môn Lịch sử luôn được xem là môn phụ nên việc đầu tư cho quá trình dạy và học thường ít được chú trọng. Cả người dạy và người học luôn trong tâm lý đối phó. Thông thường chỉ có những năm môn Lịch sử được chọn là môn bắt buộc trong kỳ thi tốt nghiệp THPT thì kết quả mới khả quan hơn.
Thực trạng việc dạy và học môn Lịch sử hiện nay đã quá chú tâm vào tính thuộc bài, theo kiểu học vẹt nhưng lại thiếu không gian tư duy. Ngoài ra, đề thi và gợi ý đáp án trong kỳ thi đại học năm nay lại quá cứng nhắc, chủ yếu xoay quanh khối lượng kiến thức lịch sử hiện đại với nhiều cương lĩnh, nghị quyết rất khó tiếp thu đối với một học sinh THPT nên kết quả thấp là điều khó tránh khỏi.
Ngoài ra, khi nhìn lại thực tế hiện nay, hàng loạt các công trình, di tích lịch sử đang bị đối xử một cách thô bạo. Nếu không bị đập phá thì cũng bị làm cho biến dạng dưới nhiều hình thức thông qua cái cánh mà người ta gọi là trùng tu di tích.
Không kể, một số nghi thức, lễ hội mang tính lịch sử, văn hóa đang được thương mại hóa hay biến tướng dưới nhiều hình thức mà báo chí đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực như trong thời gian qua. Chính những người làm công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử còn phạm quá nhiều sai lầm, thậm chí xem thường lịch sử đến vậy thì thử hỏi làm sao mà đào tạo một thế hệ biết… yêu quý lịch sử?
Người học lịch sử cốt yếu là để hiểu biết về nguồn gốc, về quá trình hình thành và phát triển của con người, xã hội, đất nước để từ đó có thể rút ra được bài học cho riêng mình. Đồng thời thông qua lịch sử, học sinh sẽ được giáo dục về tính tự tôn dân tộc, về tình yêu quê hương, đất nước. Nó không thể là môn học thuộc lòng những con số vô tri như ngày tháng, số lượng hay những trang cương lĩnh, nghị quyết chằng chịt chữ.
Nếu học lịch sử mà chỉ học về những chiến thắng hay thành công không thì chưa đủ mà người học cũng cần được trang bị kiến thức về những thất bại, và những bài học từ những thất bại ấy là gì, để có thể rút ra được kinh nghiệm nhằm tránh những sai lầm tương tự có thể xảy ra.
Trách nhiệm của toàn xã hội
Công bằng mà nói thì kết quả thi môn Lịch sử be bét như vừa qua là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của các ngành liên quan khác chứ không riêng gì của ngành giáo dục. Người học lịch sử có thể học ở bất kỳ đâu, từ các phương tiện sách báo cũng như phim ảnh.
Nếu những bài học khô khan gói gọn trong sách giáo khoa được hỗ trợ bằng những công cụ khác sinh động hơn thông qua các phương tiện giải trí như truyện hay phim thì có lẽ người học sẽ dễ tiếp thu, đồng thời cũng sẽ nhớ lâu hơn.
Nói về việc này, không thể không nhắc đến 1 điểm mà nhiều người đã rất đồng tình. Đó là hiện nay người Việt Nam ít hiểu biết về lịch sử Việt Nam nhưng lại thuộc làu làu lịch sử Trung Quốc.
Nếu học lịch sử mà chỉ học về những chiến thắng hay thành công không thì chưa đủ mà người học cũng cần được trang bị kiến thức về những thất bại, và những bài học từ những thất bại ấy là gì, để có thể rút ra được kinh nghiệm nhằm tránh những sai lầm tương tự có thể xảy ra.
Đây cũng là kết quả của một thời gian dài phim ảnh lịch sử Trung Quốc được trình chiếu dày đặc trên sóng truyền hình. Trung Quốc đã rất thành công trong việc quảng bá văn hóa, lịch sử của mình thông qua phương tiện giải trí là phim ảnh. Vậy tại sao Việt Nam mình lại không làm được điều này? Lịch sử Việt Nam cũng trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, cũng gay cấn và hấp dẫn đâu thua kém gì lịch sử Trung Quốc?
Sẽ chẳng ai dám cho rằng học lịch sử là không hấp dẫn, đó là điều chắc chắn. Tuy nhiên lâu nay người học luôn bị đặt trong tư thế gượng ép với cách nhồi nhét xơ cứng. Môn Lịch sử cũng như môn Văn học, người học cần được khơi mào cảm hứng và để cho họ tự cảm nhận cái đúng, cái sai.
Lịch sử là một thứ vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Một thế hệ mà sự hiểu biết về lịch sử nước nhà được thể hiện bằng những con số 0 tròn trĩnh thì không khác nào con người sống mà không hề biết đến tổ tông, gốc tích của mình. Đây mới là điều đáng sợ nhất.
Lịch sử không chỉ bằng những con chữ khô khan trong sách giáo khoa mà nó còn là những mái đình cổ kính, những mảng rêu phong mang dấu tích thời gian. Học lịch sử không phải là cách đọc- chép vô hồn giữa thầy và trò, mà cần được tăng cường thêm sức lôi cuốn thông qua các phương tiện giải trí khác.
Và quan trọng hơn là phải biết truyền cho học sinh tình yêu đối với lịch sử, với quê hương đất nước thì mới mong nhận lại sự đáp trả của người học. Đây cũng là sự đối xử công bằng, sự công bằng cần thiết như chính chúng ta đối xử với lịch sử vậy.
TRẦN MINH QUÂN
Đọc thêm!

Dạy sử, “không thể nấu sỏi và nước lã thành súp”

Thực tế cuộc sống dạy ta rằng 1 khi người ta cứ nhăm nhăm định “giáo dục” một cái gì đó thì biện pháp ấy chỉ thường phản tác dụng. Món giáo dục không nên bắt… ăn sống.

Không thể nấu sỏi và nước lã để thành… súp
Vẫn như mọi khi, sau “sự cố” hàng nghìn thí sinh được điểm không (0) môn lịch sử trong kỳ thi tuyển sinh đại học 2011, người ta quay ra đổ lỗi cho cách dạy của thày cô, cách học của học sinh, thái độ xã hội với môn này…. và phê phán luôn Bộ Giáo dục.
Chúng ta hãy bình tĩnh điểm lại từng vấn đề xem sự cố đó từ đâu đến và nó có đến nỗi gây hoảng loạn hay không. Chúng ta hãy cùng lắng nghe ý kiến nhiều chiều, nhất là từ thí sinh, những người trực tiếp nhận sự giáo dục về lịch sử. Trên các trang web đã có khá nhiều ý kiến của thí sinh và những người quan tâm, tôi xin không nhắc lại.
Đổ lỗi cho người dạy là không công bằng. Bài hát dở về lời, hỏng về nhạc thì ca sĩ dù có xoay xở biến báo đến mấy thì cũng không thể hát hay được. Về vai trò của người dạy, ai đó đã ví người dạy như người nấu món ăn. Thực phẩm để chế biến chỉ có vậy thì làm sao nấu ngon? Đầu bếp tài hoa đến mấy cũng không thể nấu sỏi và nước lã thành món súp thơm ngon được cho dù đổ thêm bao nhiêu gia vị. Đừng đổ tại người dạy.
Tại ai? Tại truyền thông Nhà nước!
Có người cho rằng thanh thiếu niên không thích học môn lịch sử? Sai! Có rất nhiều thiếu niên, thanh niên  tôi được biết, vẫn rất thích đọc những cuốn như “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”, “Dã Tượng”, “Danh nhân đất Việt”, “Sao Khuê lấp lánh” … Dã sử như thế không phải về lịch sử nước nhà sao?
Không những thế, thanh thiếu niên ngày nay còn có điều kiện quan tâm đến lịch sử các nước khác một cách không khó khăn. Qua Internet, qua phim ảnh, tiểu thuyết… họ biết được sự thật về khá nhiều sự kiện lịch sự trên thế giới và trao đổi lại với thế hệ cha anh họ để hiểu cho đúng. Như vậy, không thể nói thanh thiếu niên thờ ơ với lịch sử. Họ quan tâm đến lịch sử đấy chứ!
Nhưng muốn sử đến với người đọc, các sự kiện không chỉ được chép một cách khô khan trong sách giáo khoa. Người lớn phê phán thanh thiếu niên thuộc sử Tàu hơn sử ta. Có thể là như vậy. Nhưng do ai? Câu trả lời đơn giản: Do truyền thông Nhà nước. Vì mục đích gì? Câu trả lời lại càng đơn giản: Vì tiền.
Trên hệ thống truyền thông (tất nhiên là Nhà nước), phim Tàu, phim Hàn Quốc chiếu tràn lan ở tất cả các kênh từ Trung ương đến các tỉnh thành. Do có quá nhiều đài (mỗi tỉnh ít  nhất có một), không có nội dung nên dễ nhất là chiếu phim cho không.
Ai cũng biết các phim Tàu/Hàn Quốc cho không chỉ là thứ hàng “mua 1 tặng 2″ hoặc “không mua cũng tặng” để tuyên truyền và quảng cáo hàng hóa (Âu-Mỹ gọi loại này là “phim xà phòng” – tức là để quảng cáo bán xà phòng). Lợi nhuận thu từ quảng cáo rất lớn trong khi đầu tư thiết bị, .. lại là tiền… nhân dân.
Lịch sử phải là khoa học
Nếu học sinh không thích học môn lịch sử thì tại sao? Những lý do cho rằng cuộc sống hiện đại có nhiều lựa chọn hơn, chỉ đúng một phần. Có cả nghìn nguyên nhân nhiều người đã nhắc đến tại sao học sinh không muốn học môn lịch sử. Nhưng có 1 nguyên nhân căn cốt lại lảng tránh. Thực sự chúng ta lâu này đã dạy môn lịch sử theo đúng nghĩa của từ này cho học sinh chưa? Đó là sự trung thực trong các tư liệu lịch sử, trong đó có sách giáo khoa lịch sử.
Thời còn là học sinh, chúng tôi được dạy rằng giáo dục XHCN phải làm tròn nhiệm vụ cao cả là công cụ phục vụ cho ý thức hệ XHCN. Môn lịch sử lại càng được tận dụng làm công việc này. Những ai quan tâm đến giáo dục nói chung và môn lịch sử nói riêng từ lâu đều biết nó “không phải là một môn giáo dục, tuyên truyền chính trị thông qua các sự kiện và con số, mà là một môn khoa học …”
Nhưng rất tiếc, cho đến nay môn học này ở nước ta đã và đang thực hiện cái trách nhiệm không thuộc thiên chức của nó. Một khi nó được dùng làm công cụ tuyên truyền chính trị, nó sẽ mất đi cái tính chất cốt tử của nó là tính trung thực. Và chừng đó môn lịch sử vẫn không được học sinh yêu thích, xứng đáng là một khoa học và nó sẽ chịu mãi số phận như hiện nay.
Tuy nhiên, ta cần đánh giá đúng vị trí và tầm quan trọng của môn học này. Có một số người tự huyễn hoặc cho rằng môn học của mình là “quan trọng nhất”, hoặc “khoa học của mọi khoa học”. Chẳng có môn nào là quan trọng NHẤT cả. Con người cần nhiều tri thức và kỹ năng khác nhau để hoàn thiện mình.
Lại có những ý kiến của một số nhà làm sử cường điệu tầm quan trọng của chuyên ngành mình rằng “không biết sử, không thành người”. Xin thưa, để thành NGƯỜI với nghĩa đầy đủ, người ta cần rất nhiều thứ khác nữa, chứ không phải chỉ biết sử, nhất lại là sử sách.
Thiên chức muôn thưở của khoa học lịch sử là ghi chép lại những gì đã xảy ra một cách trung thực, chứ không đòi hỏi sự sáng tạo nào. Còn người ta dùng các ghi chép đó hoặc “tra chuôi, tra cán” cho nó phục vụ mục đích gì lại là chuyện khác.
Lỗi của ai?
Có ý kiến cho rằng Bộ Giáo dục làm chương trình, tổ chức biên soạn sách giáo khoa không tốt, phương pháp dạy không hấp dẫn,… Xin thưa, Bộ Giáo dục chưa phải là cơ quan tối thượng quyết định nội dung chương trình và sách giáo khoa môn lịch sử. Nhưng đến khi có “sự cố”, chính những người tham gia quyết định nội dung chương trình lại là những người phê phán chương trình mạnh mẽ nhất.
Mọi tài liệu lịch sử, trong đó có sách giáo khoa ở trường học, đều nhằm cung cấp cho người đọc và người học những cứ liệu về sự kiện… có thực xảy trong qua khứ, để từ đó tìm ra những gì có tính quy luật. Biết hôm qua để biết ngày mai. Biết cái hay để phát huy, biết cái dở để tránh. Nhưng điều đó chỉ có giá trị khi những ghi chép về lịch sử của ngày hôm qua được truyền cho thế hệ sau phải công bằng và trung thực.
Người sau may ra, chỉ là may ra thôi, có thể tránh được cái sai của người trước nếu cái sai đó được nói thật ra. Cái hay của quá khứ chỉ khi được nói đúng mức, mới không khiến người đi sau mù quáng lao theo cái giá trị ảo được quá tô hồng.
Ngày xưa vua chúa phong kiến còn có quan chép sử được làm việc tương đối độc lập. Những gì họ chép, vua chúa thậm chí cũng không được biết, và họ chịu trách nhiệm với những gì họ viết ra. Có như vậy, những gì truyền cho hậu thế còn có thể gọi là sử. Sử khác với văn là văn được hư cấu còn sử thì không được phép.
Nếu người đọc tài liệu lịch sử quay lưng, người học học đối phó thì những nhà làm sử và dạy sử cần phải xem lại chính mình trước khi phê phán học sinh.
Người viết bài này không biện minh cho việc không thuộc sử nước nhà. Nhưng, cực đoan đến mức cho rằng “không thuộc sử nhà là không yêu nước” là quan điểm chụp mũ. Thuộc sử nhà chưa chắc đã yêu nước. Ngược lại, không thuộc sử không đồng nghĩa với không yêu nước. Yêu nước phải được thể hiện bằng hành động.
Thử hỏi bao nhiêu liệt sỹ đã ngã xuống vì đất nước này thuộc sử nước nhà? Thử hỏi bao nhiêu người lao động một nắng hai sương xây dựng đất nước thuộc sử nhà? Nhưng chính những con người đó, có khi chưa bao giờ biết đến cuốn sách giáo khoa lịch sử, lại là những người mà lịch sử dân tộc đã thấm vào tận huyết mạch.
Hơn nữa, ta không nên đồng nhất sử nước nhà với chương trình và sách giáo khoa lịch sử. Sử nước nhà không chỉ là sách giáo khoa, mà sách giáo khoa lịch sử không hẳn là lịch sử nước nhà.
Môn Lịch sử trong thời đại thông tin
Không còn như trước nữa, ngày nay người học và người đọc không chỉ có sách giáo khoa là nguồn duy nhất. Bộ môn Lịch sử của nước nhà đã không theo kịp tiến bộ xã hội loài người, mở ra cho mọi người cơ hội được tìm và hiểu. Khi có những mâu thuẫn về thông tin, người đọc và người học có quyền hoài nghi. Và một khi họ hiểu đúng sự thật thì những gì mà tài liệu lịch sử đưa ra không đúng sẽ hết giá trị hấp dẫn.
Trong thời đại thông tin không còn là lĩnh vực độc quyền, ta thử hỏi sách giáo khoa lịch sử viết cho học sinh đã viết đúng về các sự kiện chưa? Từ chuyện nhà đến chuyện người như Chiến tranh Triều Tiên, vai trò của các bên tham gia Chiến tranh Thế giới thứ 2 chống Phát-xít, … viết đã đúng chưa?
Nếu tôn trọng lịch sử là một khoa học, những người viết sử phải loại bỏ được cái não trạng “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”, “cười thuê, khóc mướn”. Vì cái đó tự nó sẽ mâu thuẫn với thực tế có thể kiểm chứng. Cứ xem ngôn từ được sử dụng trong sách giáo khoa khi viết về “phe ta” và “phe địch” thì rõ. Giữ mãi não trạng đó chỉ làm cho môn Lịch sử càng bị xa lánh dưới ánh sáng mặt trời. Thái độ đó không phải thái độ của người làm khoa học; viết sử như thế là tự giết môn Lịch sử.
Hãy đặt mình vào địa vị của thí sinh
Các thày cô ra sức phê phán học sinh thờ ơ với môn Lịch sử. Xin các vị hãy đặt mình vào địa vị của thí sinh ngày nay. Trước một lựa chọn khó khăn, một là theo ngành sử (nếu thi đậu) để sau khi ra trường cầm tấm bằng “đỏ” ngồi đợi “đến Tết” không đến lượt mình xin được một chỗ làm nếu không có người thân là quan chức hay không có tiền chạy chọt.
Ngày xưa vua chúa phong kiến còn có quan chép sử được làm việc tương đối độc lập. Những gì họ chép, vua chúa thậm chí cũng không được biết, và họ chịu trách nhiệm với những gì họ viết ra. Có như vậy, những gì truyền cho hậu thế còn có thể gọi là sử. Sử khác với văn là văn được hư cấu còn sử thì không được phép.
Nếu người đọc tài liệu lịch sử quay lưng, người học học đối phó thì những nhà làm sử và dạy sử cần phải xem lại chính mình trước khi phê phán học sinh.
Hai là chọn ngành khác vừa được học, vừa được làm việc để nuôi sống bản thân và phục vụ xã hội. Thử hỏi các thày cô ở trong địa vị đó, các thày cô lựa chọn con đường nào? Có thực mới vực được đạo, cha ông ta dạy rồi.
Bao nhiêu thầy dạy lịch sử cho con mình theo ngành lịch sử của mình? Rất ít. Tôi có mấy người quen dạy lịch sử ở đại học. Một ông bạn có 2 con theo ngành tài chính kế toán. Ông thích lắm vì các con ông có thu nhập cao, thỉnh thoảng biếu ông tiền tiêu vặt. Một ông bạn có 3 con thì 1 đứa theo ngành toán tin làm cho một hãng nước ngoài, 1 theo ngành ngoại ngữ làm cho một tờ báo, còn 1 theo ngành thương mại buôn bán ô tô, thỉnh thoảng lại chở ông bà về thăm quê. Nhưng các ông bạn này rất hay phàn nàn tại sao học sinh không thích học môn Lịch sử của ông.
Xét quan hệ dạy-học-thi, ta thấy lẽ thường là thi cử có tác động ngược trở lại việc dạy và học – thi gì học nấy. Nhìn vào đề thi sử của các năm gần đây, ta không thấy mảy may bóng dáng lịch sử nhiều nghìn năm của dân tộc ở đâu. Dường như lịch sử nước nhà chỉ bắt đầu từ những năm 1930 (xem đề thi các năm từ 2006 đến 2011).
Cho nên, có học sinh nhầm Lý Thường Kiệt là một đồng chí được Hồ Chí Minh giác ngộ cách mạng. Đó là chuyện kỳ quặc nhưng không làm tôi ngạc nhiên. Vì cái gì được nhắc đến quá nhiều ắt sẽ át những cái ít được nói đến. Một lần tôi hỏi 1 thầy dạy sử là tại sao đề thi tuyển sinh đại học môn Lịch sử của các thầy không bao giờ hỏi đến các bậc tiền nhân như Lê Lợi, Nguyễn Trãi, vv… Câu trả lời tôi nhận được là “Lê Lợi, Nguyễn Trãi … xưa quá rồi, ai chẳng biết”, “vả lại Bộ yêu cầu đề thi chỉ ra trong chương trình cuối cấp”!?
Đề thi môn Lịch sử dành cho học sinh THPT mấy năm nay chỉ xoáy vào 1 phần vô cùng nhỏ trong lịch sử nhiều nghìn năm của dân tộc: Giai đoạn từ 1930 – thực chất là lịch sử gắn với Đảng CSVN – việc mà Viện Lịch sử Đảng lâu nay đã làm.
Ta không nhớ đến cha ông mình thì sao mong con trẻ nhớ đến chúng ta! Chẳng cần đợi đến tương lai, nay chúng ta đã được ăn “tên lửa” rồi đó.
Hãy thay da đổi thịt cho môn Lịch sử
Nếu muốn môn lịch sử thành một môn bắt buộc trong các kỳ thi, trước hết phải “thay da đổi thịt” cho nó, bằng không việc đó lại là hành động khiên cưỡng áp đặt mới chồng lên sự áp đặt cũ. Hậu quả của áp đặt đã nhãn tiền: Áp đặt ắt sẽ dẫn đến dạy-học đối phó, chiếu lệ và gian lận trong thi cử. Còn một khi nó đã có sức hấp dẫn rồi, khỏi cần “bắt buộc”.
Thực tế cuộc sống dạy ta rằng 1 khi người ta cứ nhăm nhăm định “giáo dục” một cái gì đó thì biện pháp ấy chỉ thường phản tác dụng. Món giáo dục không nên bắt ăn sống.
Nếu nói cần phải có cuộc cách mạng cho môn Lịch sử cũng đúng. Những thay đổi vá víu không mang lại hiệu quả.
Chúng ta đang loay hoay sửa những cái sai nho nhỏ thành những cái đúng nho nhỏ trong cả một cái sai lớn. Điều này đúng cả với môn Lịch sử.
NGUYỄN PHƯƠNG
Nguồn: http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-08-05-day-su-khong-the-nau-soi-va-nuoc-la-thanh-sup-
Đọc thêm!

Nước Mỹ “quên” khóa cửa và thấy khóa bị phá ở Nội Bài

Tác giả: NGUYỄN QUANG THIỀU

Những ngôi nhà ở Mỹ thường “quên” khóa cửa nhưng không thấy kẻ cắp, kẻ trộm lọt vào. Việt Nam thì khóa đủ các loại khóa vẫn bị bẻ khóa, cắt khóa. Khóa cửa nếu xét về mặt cơ học thì chỉ là hành động diễn ra trong mấy phút. Nhưng để đi đến việc không cần khóa cửa thì có lẽ người Việt Nam cũng phải mất 100 năm nữa mới có thể làm được.

Những người Mỹ không khóa cửa nhà bao giờ !
Đấy là câu nói như thốt lên của những người đã đến Mỹ. Chuyện người Mỹ không khóa cửa là chuyện xưa lắm rồi. Nhưng tôi vẫn muốn nói lại. Bởi câu chuyện người Mỹ không khóa cửa chứa đựng bao điều suy ngẫm khi tôi phải chứng kiến những gì ngược lại ở Việt Nam.
Ngày đầu tiên đến Mỹ, chúng tôi ở tạm trong ngôi nhà của một gia đình Mỹ đang đi nghỉ cuối tuần. Một người bạn của tôi lần đâu đến Mỹ đã không thể hiểu vì sao một ngôi nhà đẹp như thế, nhiều đồ đạc như thế mà không khóa cửa. Tôi đã giải thích nhưng người bạn ấy vẫn băn khoăn mãi đến gần hết chuyến đi. Trong cái đêm đầu tiên ấy, khi người bạn đi ngủ bèn mang theo cả chiếc túi sách đựng hộ chiếu và một ít tiền lên giường vì sợ đang đêm kẻ trộm mò vào nhà ăn cắp. Tôi hiểu tâm trạng ấy. Nỗi ám ảnh về những chuyện mất mát ở khách sạn hay trong chính nhà mình đã theo đuổi bạn tôi không rời.
Trong những ngày cuối cùng ở Mỹ, một người bạn nhờ con trai tôi mua giúp một cái ipad2 qua mạng. Một chiều đi chơi về, tôi thấy chiếc ipad2 được đóng gói cẩn thận để trên bậc cầu thang trước cửa nhà sát ngay vỉa hè khu phố. Cho dù đã bắt đầu hiểu một phần nào đó nước Mỹ nhưng bạn tôi vẫn rất bị "sốc". Chiếc Ipad2 được đóng gói để một nơi rất dễ nhìn thấy và chỉ cách lối đi bộ một hai bước chân mà thôi. Đấy là một khu phố vắng vẻ gần như nhà nào biết nhà ấy. Nếu ai đó muốn lấy cái ipad2 kia thì chẳng khó khăn gì, chỉ cần bước ba bước và nhặt lên. Tất cả quá dễ dàng và an toàn. Nhưng không ai lấy chiếc ipad2 đó. Không ai lấy bất kỳ những gì mà những người vận chuyển hàng hóa để trước cửa nhà của khách hàng. Người già đi qua không lấy. Người trẻ đi qua không lấy. Những người làm công việc vệ sinh môi trường đi qua cũng không lấy. Và có lẽ những người vô gia cư đi qua cũng không lấy.
Lối sống ấy không phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh sống nghèo khó hay thiếu thốn...Đó là lối sống của văn hóa, luật pháp và lòng tự trọng. Đương nhiên không phải tất cả những người Mỹ sống như vậy. Nhưng cách sống ấy là cách sống của đại đa số người Mỹ.
Xin đừng nghĩ là nước Mỹ giàu có nên chẳng ai muốn ăn cắp. Người Mỹ là người tiêu tiền một cách kỹ lưỡng và có kế hoạch nhất. Thực tế, người Mỹ vào siêu thị sẽ đứng khá lâu trước một mặt hàng giá 2 đô 99 xu và một mặt hàng giá 3 đô 10 xu. Khi đi ăn với bạn, họ trả không thừa một xu với số tiền họ phải trả. Mà khi đó, một cái ipad2 giá ở Mỹ khoảng 1.200 đô la.
Chúng ta từng đọc trên báo Việt Nam viết về những làn sóng khổng lồ người Mỹ ùa đến các siêu thị trong những ngày giảm giá và tai nạn chết người đã xẩy ra khi những khách hàng chen nhau vào siêu thị để mua hàng giảm giá. Một đô la có giá trị rất nhỏ với mức lương tháng trung bình của người Mỹ là hàng ngàn đô la. Nhưng tôi đã quan sát trong nhiều năm khi ở Mỹ cách tiêu một đô la của người Mỹ. Nhiều lúc, tôi có cảm giác họ đang tiêu những đồng một đô la như tiêu những đồng tiền cuối cùng của đời họ. Nói vậy để thấy họ quý từng đồng đô la như thế nào.
Ông cha ta có câu " đói cho sạch, rách cho thơm". Những tưởng đó là lối sống của người Việt Nam ngày nay. Nhưng câu nói của ông cha chúng ta đang bị vấy bẩn và làm lu mờ. Trong chuyến đi này, khi quá cảnh ở sân bay Narita, Tokyo, tôi đã phải mở cái thùng giấy của mình cho an ninh cửa khẩu Nhật khi họ soi thấy có một số bật lửa ga trong đó.  Sau khi kiểm tra xong, họ đã tự tay dán băng dinh chiếc thùng giấy của tôi một cách cẩn thận như chính họ đang dán chiếc thùng của họ vậy.
Thế nhưng, khi về đến Hà Nội, chiếc thùng giấy của tôi đã bị rạch và một số thứ trong thùng giấy đã biến mất. Cái vali có khóa ngầm cũng bị đập vỡ. Chiếc khóa kiểu như vậy không thể bị vỡ một cách vô tình như thế. Tôi không có chứng cứ để nói rằng những ai đó ở sân bay Nội Bài đã rạch thùng, đập khóa vali và ăn cắp đồ của tôi. Nhưng tôi tin thùng hàng của tôi đã bị rạch và khóa vali của tôi bị đập ở đó. Tôi không bao giờ tin những nhân viên làm việc ở sân bay Narita, Tokyo đã làm cái việc xấu xa đó.
Bởi ngay ở sân bay Narita, tôi đã chứng kiến nhân cách của người Nhật ngay trong chính thời gian mà người Nhật vừa trải qua đại thảm họa sóng thần. Tôi đã viết câu chuyện về nhân cách Nhật thông qua một người hầu bàn ở câu chuyện trước. Những thứ tôi mất tính ra không phải là một món tiền lớn. Nhưng hành động ăn cắp đã làm tôi nổi giận nhiều ngày. Mà không chỉ là tôi, không ít hàng khách Việt Nam và báo chí đã lên tiếng về những điều xấu xa tương tự mà họ là nạn nhân.
Đời sống của con người Việt Nam đã khác trước rất nhiều so với 10 năm trước và quá nhiều so với những năm tháng ngèo đói trước kia. Nhưng những hành động tham nhũng, tham ô, ăn cắp, lừa dối... của người Việt Nam hình như mỗi ngày một gia tăng. Mấy ngày trước, chúng tôi đi du lịch ở Nha Trang. Người hướng dẫn viên mỗi khi lên xe lại nhắc chúng tôi hãy cảnh giác cao độ nếu không muốn bị móc túi, nếu không muốn mua phải hàng giả. Anh cảnh báo chúng tôi rằng ngay cả mặt hàng yến sào đắt như vàng cũng dễ dàng bị làm giả.
Đời sống kinh tế của đất nước được cải thiện rất nhiều và với một tốc độ khá nhanh. Nhưng lòng tự trọng và lối sống văn hóa thì những người có quan tâm đều nhận thấy nó bị đánh mất đi nhanh hơn và lan truyền rộng hơn sự phát triển kinh tế nhiều lần. Nếu cứ đà này thì chỉ mươi năm nữa, những người yếu bóng vía ra đường sẽ chỉ thấy nhan nhản những kẻ ăn cắp và bọn lừa đảo.
Tại sao những năm tháng chiến tranh đầy thiếu thốn và hy sinh con người Việt Nam lại sống với lòng tự trọng cao như vậy mà bây giờ giàu có hơn thì lòng tự trọng ấy lại bị hoen ố quá nhiều ? Tôi biết rằng câu hỏi của tôi quá ngây thơ nhưng tôi cứ phải hỏi. Mà đúng hơn đó không phải là một câu hỏi mà là một tiếng kêu đau đớn và lo sợ. Và những điều làm cho chúng ta đau đớn và lo sợ sinh ra từ nền giáo dục của chúng ta. Nền giáo dục ở đây xin đừng hiểu chỉ là nhà trường mà là cách quản lý và điều hành xã hội. Không có sự thật nào ngoài sự thật này.
Lần đầu tiên đến Mỹ cách đây 19 năm, tôi thực sự ngạc nhiên vì những ngôi nhà ở Mỹ không đóng khóa cửa. Trong mỗi ngôi nhà của họ có biết bao thứ đắt tiền. Nhưng không mấy ai lọt vào nhà người khác để lấy cắp. Có nhiều lý do. Nhưng lý do cơ bản nhất là ý thức làm người của họ cùng với sự trợ giúp cho ý thức sống ấy là luật pháp và cách quản lý xã hội. Còn ở đất nước chúng ta, nhiều ngôi nhà khóa ba tầng bảy lớp vần bị phá tan tành.
Khóa cửa nếu xét về mặt cơ học thì chỉ là hành động diễn ra trong mấy phút.  Nhưng để đi đến việc không cần khóa cửa thì có lẽ người Việt Nam có ý thức về việc đó cũng phải mất 100 năm nữa mới có thể làm được. Khi tôi nói vậy, nhiều người thấy mệt mỏi rã rời vì nghĩ đến chặng đường dài đến tận...100 năm. Nhưng cho dù có phải đi đến 1000 năm thì chúng ta cũng phải đi chứ không còn cách nào khác.

Đọc thêm!

Thứ Sáu, 24 tháng 6, 2011

Mạn bàn về an toàn điện hạt nhân

Hoàng Xuân Phú

Trong buổi họp báo đầy ứ nước mắt, được tổ chức ngày 29/4/2011, Giáo sư Toshiso Kosako nghẹn ngào công bố quyết định từ chức cố vấn nguyên tử cho thủ tướng, để phản đối cách xử lý khủng hoảng hạt nhân của chính phủ Nhật Bản.[1] Hai ngày sau, trong chuyến viếng thăm và xin lỗi dân làng Iitate, phó chủ tịch Norio Tsuzumi của TEPCO (Tokyo Electric Power Company)[2]cho rằng thảm họa hạt nhân Fukushima là do con người gây ra.[3] Là một trong những người lãnh đạo cao nhất của chính công ty điều hành nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi,[4] nơi xảy ra thảm họa 3/2011, ông Tsuzumi có đầy đủ căn cứ xác thực khi thừa nhận như vậy.


Thời điểm sóng thần lùi dần xa... Đã đến lúc đưa tình đoàn kết và lòng vị tha trở về đúng vị trí hợp lý, để nghiêm khắc nhìn nhận trách nhiệm của con người đối với thảm họa hạt nhân Fukushima, thay vì đổ lỗi tất cả cho thiên nhiên.


Chuyện buồn trên “đất nước mặt trời mọc”
Trong suốt 40 năm xây dựng và vận hành, nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi đã phải chứng kiến biết bao sai lầm mang tính chủ quan của con người. Kỹ sư Shiro Ogura, người đã tham gia xây dựng 5 trong số 6 tổ máy, cho biết lúc xây dựng tổ máy số 1 vào năm 1967 người ta đã mặc nhiên sử dụng thiết kế của General Electric, vốn được dành cho nhà máy đặt trên đất Mỹ. Khi xây dựng các tổ máy tiếp theo người ta mới sửa đổi thiết kế để thích nghi với điều kiện đặc thù của Nhật Bản, song vẫn không hề tính đến đến việc sóng thần có thể xảy ra ở vùng biển này. Sau trận động đất 6,6 độ Richter vào năm 2007, TEPCO mới đưa ra biện pháp đề phòng, nhưng hệ thống làm lạnh cũng chỉ được cải tiến để đáp ứng được động đất 8 độ Richter và xây dựng tường chắn sóng chỉ cao 5,7 mét.[5] Để thấy được mức độ chu đáo của giải pháp tăng cường này, lưu ý rằng riêng trong thế kỷ 20 đã có 5 trận động đất kèm theo sóng thần lớn ở vùng biển Nhật Bản, cụ thể là vào các năm 1923 (động đất 7,9 độ Richter, sóng thần cao tới 13,0 mét), 1933 (động đất 8,4 độ Richter, sóng thần cao tới 29,0 mét), 1944 (động đất 8,1 độ Richter, sóng thần cao tới 10,0 mét), 1983 (động đất 7,8 độ Richter, sóng thần cao tới 14,5 mét) và 1993 (động đất 7,7 độ Richter, sóng thần cao tới 54,0 mét).[6]
Kỹ sư Mitsuhiko Tanaka, người từng tham gia đội hình của Hitachi chế tạo nồi hơi trị giá 250 triệu USD cho tổ máy số 4, kể rằng thành nồi đã bị biến dạng sau khi tôi luyện. Thay vì hủy bỏ sản phẩm bị hỏng theo đúng quy định của pháp luật, Tanaka đã giúp biến báo, và được Hitachi thưởng 3 triệu Yên cùng với bằng ghi nhận “công trạng đặc biệt”. Chịu tác động tâm lý nặng nề từ thảm họa Chernobyl, Tanaka đã thú nhận hành vi sai trái của mười năm trước với Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản. Nhưng Hitachi phủ nhận, còn chính phủ lại từ chối điều tra. May mà “quả bom nổ chậm” (theo cách gọi của Tanaka) lại tạm ngừng hoạt động để bảo dưỡng trong thời gian xảy ra động đất và sóng thần. “Ai có thể biết rằng điều gì sẽ xảy ra nếu lò phản ứng này đang hoạt động?” – Tanaka bình luận – “Tôi không biết liệu nó có thể trụ nổi trước một trận động đất như vậy hay không.”[7]
TEPCO từng ngụy tạo báo cáo bảo dưỡng nhà máy điện hạt nhân suốt hai thập kỷ và che dấu cơ quan giám sát hàng trăm sự cố. Khi sự việc bị bại lộ vào năm 2002, lãnh đạo TEPCO đã phải từ chức. Từ đó đến năm 2007 có thêm ít nhất 6 lần phải tắt máy khẩn cấp tại nhà máy Fukushima Daiichi và một sự cố nguy kịch kéo dài 7 giờ ở lò phản ứng số 3, nhưng chúng đều bị lãnh đạo mới của TEPCO giấu giếm.[8]
Trong báo cáo gửi NISA (Nuclear and Industrial Safety Agency)[9] – cơ quan giám sát an toàn hạt nhân của Nhật Bản – ngày 28/2/2011, TEPCO thừa nhận rằng 11 năm qua không thực hiện kiểm tra định kỳ 33 bộ phận của nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi, trong đó có máy phát điện dự trữ, bơm làm lạnh, van kiểm tra nhiệt độ...[10] NISA yêu cầu TEPCO phải đưa ra kế hoạch khắc phục trước ngày 2/6/2011.[11] Nhưng thiên tai đã không kiên trì chờ đợi đến thời hạn ấy.
Vào lúc 14h46 ngày 11/3/2011 trận động đất mang tên Tohoku mạnh 9 độ Richter[12] đã xảy ra ngoài bờ biển Miyagi. Trận động đất mạnh nhất kể từ ngày có thống kê ở Nhật Bản gây nên cơn sóng thần cao trên 10 mét, thậm chí có nơi cao tới 38 mét.[13] Nằm cách tâm chấn khoảng 150 km, nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi hứng chịu đợt sóng thần cao 14–15 mét, tràn qua tường chắn sóng chỉ cao vẻn vẹn 5,7 mét, nhấn bốn tổ máy số 1 đến 4 chìm sâu dưới nước 4–5 mét và hai tổ máy số 5 và 6 chìm dưới nước 1–2 mét.[14]
Ngay sau khi động đất xảy ra, ba lò phản ứng số 1–3 đã tự động tắt nhanh, còn ba lò phản ứng số 4–6 đang được kiểm tra định kỳ nên không hoạt động.[15] Tuy nhiên, toàn bộ hệ thống cung cấp điện lần lượt bị tê liệt[16] và hệ thống làm lạnh bị vô hiệu hóa, khiến các thanh nhiên liệu bị nóng lên quá mức cho phép, kể cả trong tâm lò lẫn trong bể làm lạnh (dành cho các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng).[17] Hậu quả là nhiều vụ nổ và hỏa hoạn xảy ra, làm hư hại các nhà lò phản ứng số 1–4, và một phần các thanh nhiên liệu bị nóng chảy.[18] Bụi phóng xạ tung ra, gây ô nhiễm nặng trên diện rộng,[19] đến mức Chính phủ Nhật Bản yêu cầu người dân sống trong vòng 30 km quanh nhà máy phải sơ tán[20] và quy định khu vực bán kính 20 km là vùng cấm.[21] Căn cứ vào mức độ ô nhiễm phóng xạ, chủ tịch Ủy ban Điều hành Hạt nhân Hoa Kỳ (Nuclear Regulatory Commission) Gregory Jaczko cho rằng khu vực sơ tán như vậy là quá hẹp và phải nâng bán kính không an toàn lên ít nhất 80 km (khu vực có khoảng 1,9 triệu người sinh sống).[22]
Lò phản ứng số 4 đang được bảo dưỡng nên không hoạt động và không hề chứa nhiên liệu hạt nhân.[23] 229 tấn nhiên liệu (trong đó 35 tấn chưa qua sử dụng) được ngâm trong bể làm lạnh, nằm trong cùng tòa nhà.[24] Tuy nhiên liệu hạt nhân ở trạng thái bảo quản tĩnh, lẽ ra phải tương đối an toàn, nhưng khoảng 6h00 ngày 15/3 đã xảy ra một vụ nổ, khoét trên tường nhà hai lỗ rộng khoảng 8 mét vuông và gây thiệt hại nặng nề.[25] Điều này cho thấy sự cố hạt nhân có thể xảy ra ngoài lò phản ứng, tức là không phụ thuộc vào việc lò phản ứng hạt nhân thuộc thế hệ nào.
Khi xảy ra sự cố, đội ngũ quản lý và chuyên gia kỹ thuật tưởng chừng rất lão luyện trở nên lúng túng và bất lực. Họ dùng máy bay và xe cứu hỏa để phun nước làm lạnh, nhưng không mấy tác dụng, vì chỉ một lượng nhỏ rơi đúng chỗ cần đến. Rồi phải huy động cả những cỗ máy bơm bê tông khổng lồ từ Đức và Mỹ để bơm nước.[26] Lúc đầu họ sử dụng nước ngọt, nhưng nguồn nước này nhanh chóng cạn kiệt, nên phải ngừng phun nước vào lò phản ứng số 1 lúc 14h53 ngày 12/3/2011. TEPCO gửi fax cho NISA vào hồi 15h18 để xin phép dùng nước biển thay thế,[27] nhưng NISA lại không chuyển ngay cho văn phòng thủ tướng. Gần 3 tiếng sau (18h) thủ tướng Naoto Kan mới bắt đầu thảo luận với các bộ trưởng,[28] trong khi một vụ nổ khí hy-đrô đã xảy ra tại lò số 1 vào lúc 15h36. Chính phủ yêu cầu tiến hành các bước chuẩn bị, nhưng TEPCO lại nhầm hiểu đấy là hiệu lệnh bắt đầu triển khai, nên cho phun nước biển từ 19h04. 21 phút sau, lãnh đạo TEPCO ra lệnh dừng lại vì phát hiện ra thủ tướng vẫn chưa phê chuẩn. Mặc dù vậy, trái với lệnh của cấp trên, ông Masao Yoshida ­– lãnh đạo nhà máy Fukushima Daiichi – vẫn tiếp tục cho phun nước biển vào lò phản ứng, trong khi TEPCO ra thông báo là quá trình phun nước đã bị gián đoạn 55 phút.[29] Sở dĩ họ phải lưỡng lự như vậy là vì nước mặn sẽ làm hỏng các thiết bị, hơn nữa khi muối kết tủa thì cản trở quá trình lưu thông làm lạnh tiếp theo. Sau hai tuần, một lượng muối khổng lồ đọng lại trong các lò phản ứng. Richard Lahey – người phụ trách nghiên cứu giải pháp an toàn cho lò phản ứng nước sôi khi General Electric lắp đặt chúng ở Fukushima Daiichi – ước lượng có khoảng 26 tấn muối kết tủa trong lò phản ứng số 1, và khoảng gấp đôi lượng ấy kết tủa trong lò số 2 và 3.[30]
Kể dài dòng về diễn biến trên để thấy được bộ máy quản lý từ cơ sở tới trung ương ứng phó thế nào trước sự cố hạt nhân. Những quyết định liên quan là vô cùng hệ trọng và có thể kéo theo những hậu quả khủng khiếp, ảnh hưởng nặng nề đến hàng triệu người, trong hàng chục năm trời. Vì vậy, chúng vượt ra khỏi thẩm quyền của các cấp cơ sở, bị đẩy lên cấp trung ương, đến tay thủ tướng. Dù thủ tướng tài giỏi đến đâu thì cũng không đủ hiểu biết chuyên môn để đưa ra quyết định ngay lập tức, nên phải bàn bạc với các bộ trưởng. Họ cũng không khá hơn nhiều, nên phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia. Từ lúc cơ sở gửi báo cáo và xin chỉ thị, đến khi thủ tướng nhận được thông tin, triệu tập cố vấn để bàn bạc và ra được phán quyết, thì cũng phải mấy tiếng trôi qua, nếu không mất cả ngày. Nhưng sự cố hạt nhân diễn ra cực nhanh, không chờ đợi con người thực hiện xong cái quy trình ra quyết định ấy. Trong trường hợp lò phản ứng số 1 của nhà máy Fukushima Daiichi, từ lúc TEPCO gửi fax xin phép dùng nước biển để giảm nhiệt đến lúc xảy ra vụ nổ chỉ có 18 phút, trong khi phải sau 5 tiếng mới nhận được trả lời của thủ tướng và NISA.[31] Điều gì sẽ xảy ra nếu người ta không hiểu lầm lệnh của chính phủ, cho phun nước biển từ 19h04, và nếu lãnh đạo nhà máy tuân lệnh TEPCO dừng lại 55 phút? Oái oăm thay, thiệt hại được hạn chế ít nhiều nhờ cấp dưới hành động không đúng với lệnh cấp trên. Câu hỏi mang tính nguyên tắc là: Liệu có bộ máy quản lý nào trên thế giới có khả năng phản ứng kịp thời và chính xác đến mức đáp ứng được diễn biến cực nhanh và vô cùng phức tạp của sự cố hạt nhân không? Chắc là không!
Ngày 12/4/2011 cơ quan giám sát an toàn hạt nhân NISA đã phải nâng đánh giá mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng hạt nhân từ cấp 5 lên cấp 7 theo thang bậc INES (International Nuclear Event Scale),[32] tức là mức cao nhất, trong quá khứ mới được dùng để đánh giá thảm họa Chernobyl.
Tiến sỹ Hans-Josef Allelein, giáo sư về công nghệ và an toàn của lò phản ứng hạt nhân tại trường đại học danh tiếng RWTH Aachen (CHLB Đức),[33] đánh giá rằng người Nhật sẽ phải chiến đấu với hậu quả của thảm họa Fukushima ít nhất 30 năm nữa cho đến khi hoàn toàn kiếm soát được tình hình, và khu vực xung quanh nhà máy Fukushima Daiichi sẽ bị ô nhiễm bởi đồng vị phóng xạ Caesium-137 ít nhất 200 đến 300 năm nữa.[34]
Hậu quả nặng nề của thảm họa hạt nhân buộc người ta phải đặt câu hỏi về trách nhiệm của TEPCO và các cơ quan quản lý. Không ai có thể khẳng định các máy móc bị TEPCO bỏ mặc suốt 11 năm qua có còn hoạt động tốt trước ngày 11/3/2011 hay không. Chỉ biết số liệu đo đạc cho thấy rằng có thể một số thiết bị then chốt đã bị hỏng ngay sau khi động đất, nghĩa là trước khi sóng thần ập tới.[35] Và sự tê liệt của hệ thống cấp điện cùng với hệ thống làm lạnh sau trận sóng thần là một yếu tố then chốt dẫn đến thảm họa hạt nhân. Điều không thể chấp nhận là những người có trách nhiệm đã làm ngơ trước nhiều cảnh báo, đến từ nhiều nguồn khác nhau. Ví dụ: Năm 1990, NRC (Nuclear Regulatory Commission) – cơ quan quản lý an toàn hạt nhân của Mỹ – đã từng cảnh báo rằng đối với các nhà máy điện nằm ở những vùng hay có động đất thì khả năng các máy phát điện dự trữ và hệ thống làm lạnh bị tê liệt là rất cao. NISA đã nhắc lại điều này trong báo cáo năm 2004.[36] Nhưng TEPCO đã bỏ ngoài tai, để rồi bắt biết bao người phải gánh chịu tai họa khủng khiếp, không gì bù đắp nổi.
TEPCO đã phạm nhiều sai lầm, nhưng đó không phải là địa chỉ duy nhất đáng bị chỉ trích. Giới am hiểu không thể hài lòng với cách xử lý khủng hoảng của những người có trách nhiệm. Ủy ban An toàn Hạt nhân Nhật Bản (Japan’s Nuclear Safety Commission) đã không điều động một ai trong số 40 chuyên gia của họ đến hiện trường, mặc dù kế hoạch quốc gia về đề phòng thảm họa quy định phải làm như vậy.[37] Thủ tướng Naoto Kan trực tiếp chỉ đạo, nhưng điều đó không chỉ đem lại tác dụng tốt cho công việc cứu hộ. Sự hiện diện của ông khiến lực lượng chuyên trách lúng túng trong quyết định và do dự trong hành động. Do không ai dám ngăn thủ tướng thực hiện chuyến thị sát Fukushima bằng máy bay trực thăng, để đảm bảo an toàn cho ông, người ta đã không thể cho xả áp vào một thời điểm sớm hơn và thuận lợi hơn.[38]
Trong cuộc họp báo ngày 10/5/2011, thủ tướng Naoto Kan thừa nhận: “Cùng với Tokyo Electric Power Co, Chính phủ – tổ chức đã thúc đẩy năng lượng hạt nhân với tư cách chính sách quốc gia – chịu trách nhiệm lớn về sự cố hạt nhân.” Ông tuyên bố sẽ không lĩnh khoản lương 20.200 USD/tháng và khoản thưởng 24.600 USD mỗi năm 2 lần dành cho thủ tướng cho đến khi giải quyết ổn thỏa cuộc khủng hoảng hạt nhân.[39]
Những điều kể trên không liên quan đến máy móc, không phụ thuộc vào tầm phát triển của công nghệ, mà chỉ thể hiện những nhược điểm muôn thuở của con người. Cho dù ở thế kỷ 20 hay 21, ở phương Đông hay phương Tây, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, thì đều không thể tránh được hoàn toàn những hạn chế mang tính cố hữu thuộc về con người. Và đấy là hiểm họa tiềm tàng, luôn song hành với điện hạt nhân.
Nhắc lại những chuyện ấy không phải để hạ thấp nước Nhật và người Nhật. Ngược lại, sự ứng xử bình tĩnh, tính kỷ luật và tinh thần tương trợ hiếm có của người dân Nhật trong thảm họa vừa qua đã làm hàng tỉ trái tim trên thế giới rung động và ngưỡng mộ. Mượn chuyện buồn của bạn chỉ để giúp mình trả lời một câu hỏi thiết thân: Với một nền khoa học– công nghệ siêu đẳng, với một đội ngũ chuyên gia tài năng có nhiều kinh nghiệm và kỷ luật cao, với một bộ máy lãnh đạo–quản lý giàu lòng tự trọng, vậy mà Nhật Bản cũng không thể tránh được hết những hạn chế của yếu tố con người, để dẫn đến thảm họa hạt nhân, thế thì ở đất Việt sẽ thế nào?

Nỗi trăn trở của người Đức
Lo ngại trước hiểm họa hạt nhân và hậu quả lâu dài đối với con người và môi trường, phong trào phản đối điện hạt nhân ở Đức hình thành trong những năm 1970 và được hưởng ứng rộng rãi sau thảm họa Chernobyl 1986.
Năm 2002 chính phủ liên minh giữa Đảng Xã hội dân chủ Đức (SPD) và Đảng Xanh (Gruene) của thủ tướng Gerhard Schroeder đã sửa đổi Luật nguyên tử, mở đầu cho quá trình rút khỏi năng lượng hạt nhân. Theo đó, không được xây dựng mới các nhà máy điện hạt nhân thương mại, khống chế thời gian hoạt động của các nhà máy điện hạt nhân đang tồn tại là 32 năm kể từ ngày khánh thành và lượng điện được sản xuất trong các nhà máy hạt nhân của Đức kể từ 1/1/2000 không được vượt quá 2,62 triệu gigawatt-giờ. Đến cuối năm 2005, 2 trong số 20 nhà máy điện hạt nhân đã phải ngưng hoạt động vĩnh viễn.[40] Số còn lại sẽ phải lần lượt đóng cửa trước 2021–2022.[41]
Vì sao chính phủ Schroeder có thể đưa ra chính sách “cực đoan” như vậy? Vì họ hiểu rõ rằng không tồn tại thứ công nghệ điện hạt nhân có thể coi là an toàn tuyệt đối. Cho đến nay loài người vẫn bất lực, chưa tìm nổi câu trả lời hợp lý cho vấn đề xử lý chất thải hạt nhân. Trong một nước dân chủ, khó có thể phớt lờ ý nguyện bảo vệ môi trường và sự sống của hàng chục triệu công dân, để chôn bừa chất thải hạt nhân ở đâu đó, như một số nước vẫn làm. Luật của Đức cho phép tạm trữ các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng trong hầm xây cạnh nhà máy trong 40 năm, nhưng thời gian đó trôi nhanh như chớp mắt, mà người ta vẫn chưa tìm ra cách xử lý thỏa đáng.
Một trong những giải pháp được đề xuất là thiết lập các kho chứa chất thải phóng xạ ở dưới các mỏ muối đã khai thác. Trong thời gian 1965–1992 người ta đã thử nghiệm việc lưu trữ chất thải phóng xạ dưới mỏ Asse và đã đưa 46.930 m3 chất thải xuống sâu 975 mét dưới mặt đất. Tháng 9/2008 các bộ liên quan thỏa thuận sử dụng mỏ Asse làm kho chứa vĩnh viễn, nhưng đầu năm 2009 đã phải từ bỏ ý định ấy sau khi phát hiện ra sự rò rỉ của dung dịch muối và nguy cơ sập mỏ.[42] Người ta dự định sẽ đưa lượng chất thải phóng xạ kể trên ra khỏi lòng đất. Nhưng rồi sẽ chuyển chúng đi đâu? Sự kiện ấy khiến dư luận vốn đã lo ngại lại càng thêm lo ngại.
Đại diện cho những lực lượng ủng hộ điện hạt nhân, chính phủ của ba đảng Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU), Liên minh Xã hội Thiên chúa giáo (CSU) và Đảng Dân chủ Tự do (FDP) do thủ tướng Angela Merkel đứng đầu đã sửa lại Luật nguyên tử vào tháng 10/2010. Tuy vẫn khước từ việc xây dựng mới các nhà máy điện hạt nhân, nhưng 7 nhà máy xây dựng trước năm 1980 được gia hạn hoạt động thêm 8 năm và 10 nhà máy mới hơn được gia hạn hoạt động thêm 14 năm so với thời hạn quy định dưới thời của chính phủ Schroeder.[43] Ví dụ: Nhà máy Neckarwestheim-2 khánh thành 1/1989 được kéo dài thời gian hoạt động đến năm 2036.[44]
Tất nhiên, các đảng đối lập phản đối, coi đó là một bước đi giật lùi, còn các đảng cầm quyền thì vẫn kiên định lập trường ủng hộ điện hạt nhân. Nhưng, chưa đầy 5 tháng sau, chấn động của thảm họa Fukushima 3/2011 đã làm rung chuyển xã hội Đức và tạo ra bước ngoặc trong chính sách hạt nhân của chính phủ Merkel. Thừa nhận rằng “Fukushima đã thay đổi quan điểm của tôi về năng lượng hạt nhân”, thủ tướng Merkel đã đến với nhận thức mới là không thể khống chế được nguy cơ hiểm họa của năng lượng hạt nhân.[45] Từ chỗ cho kéo dài hơn gấp đôi thời hạn tiếp tục hoạt động của các nhà máy hiện có, bà dự kiến sẽ rút nhanh khỏi năng lượng hạt nhân. Ngày 14/3/2011 thủ tướng yêu cầu ngay lập tức phải kiểm tra an toàn của tất cả 17 nhà máy điện hạt nhân và yêu cầu 7 nhà máy cũ nhất phải tạm ngừng hoạt động 3 tháng.[46]
Ngày 22/3/2011 thủ tướng Merkel lập ra Ủy ban Đạo đức (Ethikkommission) để xem xét các khía cạnh đạo đức và kỹ thuật của năng lượng hạt nhân, chuẩn bị một thỏa thuận xã hội để rút khỏi năng lượng hạt nhân và đề xuất quá trình chuyển đổi sang các năng lượng tái tạo.[47] Sau hơn 2 tháng làm việc, Ủy ban Đạo đức đã trao cho thủ tướng bản kiến nghị, trong đó đề xuất nước Đức rút khỏi năng lượng hạt nhân trong vòng 10 năm.[48] Ủy ban cho rằng không thể hạn chế được hậu quả của tai nạn hạt nhân, kể cả về không gian, thời gian và phạm vi xã hội; để tránh được các tai nạn như vậy thì chỉ còn cách là không sử dụng điện hạt nhân.[49]
Trong cuộc họp kéo dài đến quá nửa đêm chủ nhật 29/5/2011, lãnh đạo của ba đảng tham gia liên minh cầm quyền CDU, CSU và FDP đã đi đến thống nhất là CHLB Đức sẽ rút ra khỏi năng lượng hạt nhân vào năm 2022. Cụ thể là ngừng ngay hoạt động của 8 nhà máy,[50] 9 nhà máy còn lại sẽ phải lần lượt đóng cửa trong thời gian từ 2015 đến 2021/2022.[51]
Là một chính trị gia dày dạn kinh nghiệm, bà Merkel biết rõ việc đảo ngược chính sách hạt nhân như vậy đồng nghĩa với công nhận quan điểm của phe đối lập và phủ nhận lập trường mà đảng của bà vẫn theo đuổi. Điều đó sẽ tăng điểm cho đối phương, vốn đang lên như diều gặp gió, và gia tăng bất lợi cho đảng của bà, trong khi kỳ tổng tuyển cử đang đến gần.[52] Song với tư cách một nhà khoa học đã hoạt động trong lĩnh vực vật lý và hóa học, từng nghiên cứu những đề tài liên quan đến công nghệ hạt nhân,[53] Tiến sĩ Angela Merkel không thể nhắm mắt phủ nhận nguy cơ tiềm tàng, luôn rình rập của các nhà máy điện hạt nhân. Lương tâm thúc giục bà đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái, coi trọng sự an toàn của toàn dân hơn quyền lực và lợi ích cá nhân.
Vậy là, chỉ 7 tháng sau khi sửa Luật nguyên tử để kéo dài thời gian hoạt động của các nhà máy điện hạt nhân đến tận năm 2036, chính phủ liên minh của ba đảng CDU, CSU và FDP đã hủy bỏ chính sách của chính mình để quay trở lại với kế hoạch rút ra khỏi điện hạt nhân trong thời gian 2021–2022, điều mà chính phủ tiền nhiệm của hai đảng SPD và Gruene đã thông qua 9 năm về trước. Quá trình phủ định của phủ định ấy không đơn thuần là những pha lật cánh chính trị, mà thể hiện sự trăn trở của xã hội Đức trước câu hỏi có nên tiếp tục sử dụng năng lượng hạt nhân hay không. Quyết định lần này chắc sẽ rất bền vững và không còn bị mang ra xét lại, bởi vì đó không phải là sự bột phát tức thời, mà là kết quả của hàng chục năm cân nhắc kỹ lưỡng; đó không phải là quyết định đơn phương, mà được tất cả các đảng tham gia Quốc hội Đức đồng thuận khi cùng ngộ ra chân lý; đó không phải là sản phẩm của tư duy chính trị thuần túy, mà được sinh ra bởi những trí tuệ khoa học, tại nơi mà Albert Einstein hoàn thành Lý thuyết tương đối mở rộng (Berlin 1915) và Otto Hahn thành công trong việc phân tách hạt nhân nguyên tử uranium (Berlin 1938).

Trông người lại ngẫm đến ta
Là một quốc gia đang phát triển nhanh từ trạng thái lạc hậu, Việt Nam luôn đói năng lượng, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải tìm ra giải pháp đáp ứng kịp thời. Điện hạt nhân là một phương án được nhiều người tính đến. Điều đó không có gì là mới lạ, bởi lẽ đã có 441 lò phản ứng đang được vận hành tại 31 nước trên thế giới, với tổng công suất 378.910 megawatt, chiếm khoảng 14% sản xuất điện năng.[54]
Nhưng việc lựa chọn điện hạt nhân cũng không phải là hiển nhiên, vì có nhiều nước đã đến với điện hạt nhân rồi quay lưng lại. Năm 1978, theo kết quả trưng cầu dân ý, Áo đã quyết định không đưa vào sử dụng nhà máy điện hạt nhân Zwentendorf, mới xây dựng với giá khoảng 1 tỷ Euro, để rồi nói không với điện hạt nhân đến tận bây giờ.[55] Năm 1980, Quốc hội Thụy Điển quyết định không xây thêm nhà máy mới và hoàn thành việc rút khỏi điện hạt nhân vào năm 2010. Năm 1987, Italy quyết định đóng cửa cả 3 nhà máy điện hạt nhân đang tồn tại (vào năm 1987 và 1990) và ngừng xây dựng mới. Năm 1999, Bỉ thông qua luật rút khỏi năng lượng hạt nhân, theo đó sẽ phải đóng cửa tất cả 7 lò phản ứng sau 40 năm hoạt động và không được xây mới. Tây Ban Nha cũng thông qua luật không cho phép xây dựng nhà máy điện hạt nhân mới...[56]
Sau giai đoạn hồ hởi với điện hạt nhân cho đến thập kỷ 1970, tai nạn Three Mile Island 1979[57] và Chernobyl 1986[58] đã cảnh tỉnh dư luận. Nay, thảm họa Fukushima[59] lại cho thêm một lời cảnh cáo. Tổ chức thăm dò dư luận Gallup International Association[60] đã tiến hành khảo sát trên 47 nước và thu được kết quả: Sau sự cố Fukushima 3/2011, tỷ lệ ủng hộ điện hạt nhân đã giảm từ 57 xuống 49%, trong khi tỷ lệ phản đối tăng từ 32 lên 43%. Ở Nhật Bản, tỷ lệ ủng hộ điện hạt nhân giảm từ 62 xuống 39% và tỷ lệ phản đối tăng từ 28 lên 47%. Ở Đức, tỷ lệ ủng hộ giảm từ 34 xuống 26% và tỷ lệ phản đối tăng từ 64 lên 72%.[61]
Rõ ràng, trả lời câu hỏi lựa chọn điện hạt nhân hay không hoàn toàn không đơn giản. Là một nước đi sau, Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để tránh những sai lầm mà họ từng mắc phải. Song chỉ học được khi ý thức được rằng mình phải học và quyết tâm học tập một cách nghiêm túc.
Trong số những người tham gia quyết định việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân, có bao nhiêu người có được kiến thức cần thiết về vấn đề phức tạp và hệ trọng này? Có bao nhiêu người vì tinh thần trách nhiệm mà bỏ phiếu trắng, bởi trung thực thừa nhận rằng mình không đủ hiểu biết để có thể lựa chọn giữa phiếu thuận và phiếu chống? Trong số 439 đại biểu có mặt tại phiên họp Quốc hội sáng 25/11/2009, có 382 người tán thành thông qua nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, 39 người không tán thành, và chỉ có 18 vị không biểu quyết.[62]
Sáu tháng sau khi Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư, Nga đã được chọn làm đối tác cung cấp công nghệ cho nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1.[63] Tháng 10/2010, Nhật Bản được chọn làm đối tác để xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2.[64] Cả hai trường hợp đều không phải qua thủ tục đấu thầu quốc tế như thông lệ.[65] Một vấn đề vô cùng hệ trọng và phức tạp được quyết định nhanh chóng và dễ dàng, như thể đã được an bài từ trước.
Để có được đồng thuận, người ta tuyên truyền là điện hạt nhân vừa rẻ, vừa an toàn.[66] Không chỉ khẳng định về sự an toàn của các nhà máy điện hạt nhân sẽ được xây dựng ở Việt Nam, ông Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên Tử Việt Nam Vương Hữu Tấn còn đứng ra đảm bảo cả sự an toàn của nhà máy điện hạt nhân ở Trung Quốc. Trước việc Trung Quốc khởi công xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Fangchenggang (Phòng Thành Cảng – cách biên giới Việt Nam khoảng 45 km) vào ngày 30/7/2010,[67] ông Tấn nói rằng “người dân không nên lo lắng”, vì “phần lớn nhà máy điện hạt nhân ngày nay sử dụng lò phản ứng thế hệ II và được xây dựng theo các quy trình an toàn nghiêm ngặt nên khả năng xảy ra sự cố là rất thấp... Trong trường hợp trục trặc xảy ra dẫn tới rò rỉ phóng xạ thì chất phóng xạ sẽ không thoát ra khỏi phạm vi nhà máy. Vì thế, theo ông Tấn, khoảng cách 60 km từ nhà máy tại Phòng Thành Cảng tới Quảng Ninh không gây nguy hiểm.”[68] Điều đáng lưu ý là vào thời điểm mà ông Vương Hữu Tấn thuyết phục người Việt yên tâm về nhà máy điện hạt nhân Phòng Thành Cảng, được trang bị lò phản ứng CPR-1000 (do Trung Quốc thiết kế và chế tạo), thì loại lò này chưa hề được khai thác trên thực tế, và phải 2 tháng sau (20/9/2010)[69] Trung Quốc mới bắt đầu vận hành thương mại lò phản ứng CPR-1000 đầu tiên (ở tỉnh Quảng Đông).[70]Chưa đầy 8 tháng sau khi ông Tấn nói “khả năng xảy ra sự cố là rất thấp” và “chất phóng xạ sẽ không thoát ra khỏi phạm vi nhà máy”, cho nên “tại Nhật Bản, có những nơi người dân sống cách nhà máy điện hạt nhân chừng 500 m”, thì thảm họa Fukushima Daiichi ập tới. Bụi phóng xạ vượt hàng nghìn km, bay đến tận châu Mỹ.[71] Ô nhiễm phóng xạ nghiêm trọng đến mức chính phủ yêu cầu hàng trăm nghìn người sống trong bán kính 30 km quanh nhà máy phải đi sơ tán.[72] Cách nhà máy 40 km, làng Iitate cũng chịu ô nhiễm đến mức Greenpeace phải kêu gọi 7.000 người dân nên rời khỏi khu vực này.[73]
Trái lại với khẳng định của ông Vương Hữu Tấn là “nếu có sự cố xảy ra thì tất cả các chất phóng xạ sẽ bị giam hãm trong nhà lò phản ứng không phát tán ra bên ngoài”,[74] các chuyên gia của nhà máy Fukushima Daiichi không tìm mọi cách để giam hãm các chất phóng xạ, mà còn cố ý cho chúng thoát bớt ra ngoài, chấp nhận ô nhiễm phóng xạ ở mức độ nhất định để tránh những vụ nổ nguy hiểm gấp bội.[75] Chủ động xả áp ra ngoài (controlled venting) khi áp suất bên trong vượt khỏi tầm kiểm soát là một giải pháp không xa lạ đối với những người làm việc trong lĩnh vực điện hạt nhân. Khi mà áp suất trong nhà lò phản ứng (containment) của tổ máy số 1 lên đến 840 kPa, hơn gấp đôi so với mức được phép tối đa là 400 kPa,[76] thì khó mà tiếp tục kiên định lập trường “giam hãm”.
Nếu quả thật họ tin là điện hạt nhân vừa rẻ, vừa an toàn thì sao không “ưu tiên” xây dựng nhà máy giữa Hà Nội để trang trí cho thủ đô, mà lại “nhường” cho Ninh Thuận? Nếu thiết lập một vành đai biệt thự xung quanh nhà máy điện hạt nhân, dành những người đã góp phần quyết định, thì họ có đồng ý đến đó ở hay không? Đấy không chỉ là phép thử lòng trung thực, mà còn là một biện pháp thiết thực có thể góp phần hạn chế sự cố hạt nhân.
Một cường quốc như CHLB Đức mà không tìm ra được biện pháp hữu hiệu để xử lý chất thải hạt nhân. Một cường quốc như Nhật Bản mà bất lực trong việc đảm bảo an toàn nhà máy điện nguyên tử. Vậy Việt Nam định xử lý những vấn đề ấy thế nào?
Sao có thể nuôi ảo tưởng rằng người Nga và người Nhật sẽ xây dựng cho Việt Nam những nhà máy điện hạt nhân tuyệt đối an toàn, trong khi chính họ không thể làm được điều đó trên tổ quốc mình? Lưu ý rằng 2 thảm họa hạt nhân lớn nhất lịch sử (Chernobyl và Fukushima) đều xảy ra ở Nga và Nhật Bản. Trong số 17 sự cố điện hạt nhân được coi là nghiêm trọng nhất của thế kỷ 20, có 4 vụ xảy ra ở Nga (Kyshtym 1958, tai nạn tầu ngầm 1961, Chernobyl 1986, Sosnovy Bor 1992) và 4 vụ ở Nhật Bản (Tsuruga 1981, Monju 1995, Tokaimura 1997, Tokaimura 1999).[77] Nếu tính cả thảm họa Fukushima 3/2011 thì Nga và Nhật Bản chiếm đúng 50% trong số 18 sự cố điện hạt nhân nghiêm trọng nhất, trong khi hai nước này chỉ chiếm 6,09% + 12,50% = 18,59% công suất điện hạt nhân và 7,26% + 12,47% = 19, 73% số nhà máy điện hạt nhân của cả thế giới.[78] Đặc biệt, cả 4 sự cố nghiêm trọng mới nhất (1995, 1997, 1999, 2011) đều xảy ra ở Nhật Bản (chỉ trong vòng 16 năm).
Người Nhật thường dành những thứ tốt nhất – nên đắt nhất – cho tiêu dùng nội địa, và xuất khẩu những thứ rẻ hơn ­– nên không tốt bằng – ra nước ngoài. Cái tốt nhất còn không tránh được thảm họa, thì cái rẻ hơn xuất sang Việt Nam sẽ thế nào?
Sau khi thảm họa Fukushima xảy ra, năm nước Áo, Đan Mạch, Hy Lạp, Irland và Luxemburg đòi toàn bộ châu Âu rút khỏi năng lượng hạt nhân;[79] Israel dừng kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên;[80] Nhật Bản xét lại kế hoạch xây dựng 14 nhà máy điện hạt nhân[81] và đề xuất đóng cửa một số nhà máy;[82] Trung Quốc ngưng cấp phép xây dựng mới các nhà máy điện hạt nhân...[83] Ở Italy, sau khi 2 nhà máy điện hạt nhân cuối cùng phải dừng hoạt động vào tháng 7/1990, chính phủ của thủ tướng Silvio Berlusconi lại thông qua luật cho phép xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới vào tháng 7/2009,[84]nhưng rồi thảm họa Fukushima đã buộc chính phủ Berlusconi phải tuyên bố tạm dừng triển khai kế hoạch điện hạt nhân một năm[85] và tổ chức trưng cầu ý kiến toàn dân vào ngày 12/6/2011, với kết quả áp đảo là gần 96% người tham gia bỏ phiếu phản đối điện hạt nhân.[86]
Thay vì cũng xem xét lại kế hoạch điện hạt nhân một cách thận trọng như các nước khác, chưa đầy một tuần kể từ khi thảm họa bắt đầu, trong lúc các chuyên gia Nhật Bản còn đang lúng túng, chưa tìm ra lối thoát, thì người ta đã tuyên bố ngay rằng Việt Nam vẫn sẽ tiến hành xây dựng các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận như dự kiến,[87] và khẳng định nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận sẽ an toàn,[88] thậm chí là an toàn nhất thế giới.[89] Chỉ riêng thể hiện bất chấp ấy cũng cho thấy nguy cơ sự cố hạt nhân ở Việt Nam lớn đến chừng nào.
Khi để cho nạn rải đinh và ăn cắp nắp cống hoành hành giữa thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì có thể đảm bảo an toàn điện hạt nhân được hay không? Khi ý thức trách nhiệm không vượt quá nhiệm kỳ thì có thể quyết định những vấn đề hệ trọng có hậu quả lâu dài cho đất nước hay không?
Do hạn chế về trình độ và kinh nghiệm, do tập quán tùy tiện và thói quen làm ẩu, do hạn chế của bộ máy lãnh đạo và thiếu minh bạch thông tin, nguy cơ hiểm họa điện hạt nhân ở Việt Nam còn cao hơn gấp bội so với ở Nga và Nhật Bản. Chỉ cần một trong 5 đặc tính dốt, chủ quan, ẩu, liều lĩnh và vô trách nhiệm cũng đã có thể gây ra thảm họa hạt nhân, huống chi là hội đủ cả 5.

Mấy điều đọng lại
Nguy cơ tai họa tồn tại vĩnh viễn cùng các nhà máy điện hạt nhân.
Công nghệ hạt nhân không ngừng tiến bộ, nhưng không bao giờ đạt được trạng thái hoàn hảo và tuyệt đối an toàn. “Đơn giản” và độc lập như hệ điều hành Windows mà Microsoft còn phải vá lỗi quanh năm, huống chi là công nghệ phức tạp và mang tính tổng hợp như công nghệ hạt nhân.
An toàn điện hạt nhân phụ thuộc vào cả những yếu tố ngoài công nghệ. Thiên tai hay xảy ra ngoài khả năng dự đoán và vượt qua khả năng tưởng tượng. Khi thiên nhiên nổi giận thì mọi công nghệ đều bất lực và mọi kháng cự của con người đều bị đè bẹp. Không một cường quốc nào nằm ngoài qui luật ấy. Thêm vào đó, sự tồn tại của các nhà máy điện hạt nhân khiến xã hội trở nên dễ bị đe dọa và dễ bị tổn thương hơn trước nạn khủng bố.
Dù tự động hóa đến đâu đi nữa thì con người vẫn là một yếu tố quyết định đối với quá trình xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân. Dù là lãnh đạo cấp cao hay quản lý trực tiếp, dù là chuyên gia hay công nhân kỹ thuật, con người không bao giờ hoàn toàn thoát khỏi những hạn chế tự nhiên của mình. Con người hay sơ xuất, mà chỉ cần một sơ xuất nhỏ trong kỹ thuật hạt nhân cũng có thể dẫn đến hậu quả khủng khiếp. Chính sai lầm của con người đã dẫn đến thảm họa hạt nhân Chernobyl[90] và Fukushima.[91] Không tồn tại công nghệ nào có thể loại bỏ triệt để lỗi của con người. Điều này đã đúng với Nga, với Nhật, thì lại càng đúng với Việt Nam.
Ngày càng có nhiều người nhận thức được rằng: Dù công nghệ hạt nhân có được mức độ an toàn tối đa thì vẫn sót lại một không gian bao la của hiểm họa hạt nhân (rest risk), hoàn toàn nằm ngoài tầm với của công nghệ.
Có thể tai nạn hạt nhân ít hơn so với một số loại tai nạn khác, nhưng khi xảy ra thì rất dễ trở thành thảm họa, vượt khỏi khả năng khống chế và khắc phục của con người, khiến lợi ích của nhà máy điện hạt nhân biến thành số âm khổng lồ, và mọi sự trở nên vô nghĩa.
Không thể áp dụng lối lập luận xác suất–thống kê để biện hộ cho an toàn hạt nhân. Có thể về lý thuyết thì thảm họa lớn (hơn so với Chernobyl 1986 và Fukushima 2011) chỉ xảy ra một lần trong trăm năm. Nhưng thực tế thì không phải đợi lâu như vậy. Cái lần được cho là duy nhất ấy có thể xảy ra ngay trong nay mai, và hậu quả của nó cũng đủ cho trăm năm sau...
Tai họa hạt nhân không biết tuân theo kỷ luật, không biết lùi trước “quyết tâm chính trị”. Nó sẽ xảy ra do tác động khôn lường của thiên nhiên và do sự kích hoạt của con người. Tiếc rằng, khi nó ập đến lại không chừa một ai, hãm hại cả những người vô tội, thậm chí họ còn phải chịu hậu quả nặng nề hơn cả những người đã được hưởng lợi trong phi vụ điện hạt nhân.
Có thể chấp nhận hay không chấp nhận điện hạt nhân, nhưng quyết định ấy phải dựa vào những kiến thức khoa học chính xác và khách quan, trên cơ sở cân nhắc lợi–hại một cách thận trọng, với ý thức tỉnh táo về nguy cơ không thể tránh khỏi của tai nạn hạt nhân. Không thể ru ngủ cộng đồng bằng những lời hứa hão huyền. Không thể vì quyền lợi trước mắt của một số người mà gây hại lâu dài cho lợi ích của muôn dân.
Đất nước này là của toàn dân, trái đất này là của toàn nhân loại, của thế hệ hôm nay và cả những thế hệ mai sau. Những chính sách ảnh hưởng đến hàng triệu sinh mạng phải được cân nhắc thận trọng và quyết định bởi hàng triệu cái đầu. Không thể áp đặt sở thích của mình, bất chấp quyền lựa chọn lối sống của hàng triệu người khác!

Hà Nội, 14/6/2011
H. X. P.



[2] http://en.wikipedia.org/wiki: “Tokyo Electric Power Company”
[4] http://en.wikipedia.org/wiki: “Fukushima Daiichi Nuclear Power Plant”
[5] http://de.wikipedia.org/wiki: “Kernkraftwerk Fukushima-Dai-ichi”
[6] Ludger Mohrbach (atw - Internationale Zeitschrift für Kernenergie - 5/2011): “Unterschiede im gestaffelten Sicherheitskonzept: Vergleich Fukushima Daiichi mit deutschen Anlagen”
[7] Jason Clenfield (Bloomberg Businessweek 23/3/2011): “Fukushima engineer says he helped cover up flaw at Dai-Ichi reactor no. 4”
[8] Jason Clenfield (Bloomberg Businessweek 18/3/2011): “Japan disaster caps decades of faked reports, accidents”
[9] http://en.wikipedia.org/wiki: “Nuclear and Industrial Safety Agency”
[10] Christoph Neidhart (sueddeutsche.de 21/3/2011): “Betreiber Tepco fälschte Reparatur-Protokolle”
[11] Kevin Krolicki (Reuters 21/3/2011): “Stricken Japan nuke plant skipped inspections”
[17] World Nuclear News 11/3/2011: “Massive earthquake hits Japan”
[18] Chico Harlan und Steven Mufson (The Washington Post 13/3/2011): “Japanese nuclear plants' operator scrambles to avert meltdowns”
[21] The Japan Times Online 22/4/2011: “No-go zone trespassers face fines, arrest”
[22] Patrick Illinger (sueddeutsche.de 17/3/2011): “Atom-Experten halten Sperrzone für zu klein”
[24] http://de.wikipedia.org/wiki: “Nuklearkatastrophe von Fukushima”
[26] World Nuclear News 1/4/2011: “Concrete pumps to Fukushima”
[36] Makiko Kitamura, Maki Shiraki (Bloomberg 16/3/2011): “Japan’s reactor risk foretold 20 years ago in U.S. Agency report”
[40] http://de.wikipedia.org/wiki: “Atomgesetz (Deutschland)”
[42] Bundesamt fuer Strahlenschutz: “Asse”
[43] http://de.wikipedia.org/wiki: “Atomgesetz (Deutschland)”
[46] http://de.wikipedia.org: “Atom-Moratorium”
[53] http://de.wikipedia.org/wiki: “Angela Merkel”
[54] http://en.wikipedia.org/wiki: “Nuclear power by country”
[55] http://en.wikipedia.org/wiki: “Zwentendorf nuclear power plant”
[56] http://en.wikipedia.org/wiki: “Nuclear power phase-out”
[57] http://en.wikipedia.org/wiki: “Three Mile Island accident”
[58] http://en.wikipedia.org/wiki: “Chernobyl disaster”
[59] http://en.wikipedia.org/wiki: “Fukushima Daiichi nuclear disaster”
[60] http://en.wikipedia.org/wiki: “Gallup International Association”
[69] World Nuclear News 27/9/2010: “New Ling Ao II unit enters into service”
[70] Sonal Patel (Power 1/11/2010): “China begins operation of first CPR-1000”
[76] World Nuclear News 12/3/2011: “Battle to stabilise earthquake reactors”
[77] http://www.atomicarchive.com: “Major nuclear power plant accidents”
[78] http://en.wikipedia.org/wiki: “Nuclear power by country”
[84] World Nuclear Association: “Nuclear power in Italy”
[85] Liam Moloney (The Wall Street Journal 23/3/2011): “Italy approves nuclear pause”
[90] http://en.wikipedia.org/wiki: “Chernobyl disaster”

Đọc thêm!