Trang

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Dạy Văn - Học Văn --- Nhầm Lẫn và Thiệt Thòi

(Trò chuyện cùng nhà văn, nhà giáo Châu Diên – Phạm Toàn)

Thực hiện: HOÀNG XUÂN TUYỀN


CHÂU DIÊN là tên dùng khi viết văn của PHẠM TOÀN là tên thật dùng để ký dưới các văn bản khoa học. 

Bút hiệu Châu Diên được ký dưới các tác phẩm: Mái nhà ấm (tập truyện ngắn, Văn học, 1960), Con nhện vàng (tập truyện ngắn, Thanh niên, 1962), Người Sông Mê (tiểu thuyết, Hội nhà văn, 2004, 2005), Truyện ngắn (tập truyện ngắn, Hội nhà văn, 2005), Bảy mươi ba chiếc cối đá (tập truyện ngắn, Hội nhà văn, 2006), cùng nhiều tác phẩm dịch khác, trong đó có Chín mươi ba (V, Hugo), Bay đêm (A. de St-Exupery), Ruồi (J-P Sartre), Nhà tiên tri (K. Gibral) …   


Dưới bút hiệu Phạm Toàn, có Công nghệ dạy văn (ĐHQG, 2000, TT Đông-Tây, 2006), Hợp lưu các dòng tâm lý học giáo dục (Tri thức, 2007), và những tác phẩm dịch Cơ cấu trí khôn (H. Gardner, Giáo dục, 1996, 1997, Tri thức sắp tái bản), Nền dân trị Mỹ (A. de Tocqueville, Tri thức, 2007, 2008) … Phạm Toàn cũng là tác giả và đồng tác giả nhiều tập sách dạy Văn theo đường lối Công nghệ Giáo dục tái bản nhiều lần trong hơn 20 năm qua.

Phạm Toàn - Châu Diên năm nay 78 tuổi tính theo tuổi mụ Nhâm Thân. Nhưng chúng tôi vẫn quen gọi bằng "anh"… 


PV: - Câu chuyện hôm nay muốn được cùng anh trao đổi chính là câu chuyện dạy văn, học văn ở trường phổ thông. Anh thấy chuyện đó bây giờ như thế nào? 

CD: - Kết quả thi tú tài năm vừa rồi, khi có tỉnh phải lùi ngày công bố để chấm lại và để tìm hiểu vì sao điểm văn quá yếu kém… Đó là câu trả lời của cuộc đời thực dõng dạc lên tiếng cho những ai biết lắng nghe...

PV: - Nếu trả lời trực tiếp hơn, tường minh hơn, anh sẽ nói gì?

CD: - Tôi sẽ nói là trẻ em không thích học văn, có khi chán ghét học văn, nên kết quả học văn rất thấp. Nội dung này tôi đã viết trên báo Văn nghệ từ năm 1986, và lấy lại bài báo đó in thành chương 4 cuốn Công nghệ dạy văn. 



PV: - Anh đã cảnh báo những gì?

CD: - Không chỉ cảnh báo, còn nói rõ một cách làm đúng hơn … Đồng thời, sau này, trong nhiều dịp tôi còn viết nhiều bài báo mô tả chi tiết cái cách dạy Văn tôi nghĩ là có ưu thế hơn kia… Nói cách khác, không chỉ "chống tiêu cực", chúng tôi còn chỉ ra một việc làm tích cực. Chúng tôi chỉ ra cách làm về lý thuyết, chúng tôi mô tả cách làm trong thực tiễn. Tiếc rằng …   

PV: - Vâng, tiếc rằng … Để cho môn Ngữ văn ở trung học cơ sở và trung học phổ thông bây giờ thành ra như là một "môn học lạ”. Môn học ấy cho ra đời những “bài văn lạ”, những “kết quả thi kỳ lạ thấp và kỳ lạ vênh” giữa học sinh tỉnh này với học sinh tỉnh khác, những “đề văn và đáp án lạ”… Kỳ lạ hơn cả là ngay các giáo viên cũng rất lung túng với môn học này, bây giờ những người soạn sách giáo khoa bắt đầu nói ra những bất đồng… Đã có những cuộc tranh luận dài kỳ trên báo… Rất lạ?

CD: - Tôi không thấy đó là chuyện lạ. Cái gốc của mọi "sự lạ" như nhà báo nói, nằm ở quan niệm sai của "người nhạc trưởng" về đường lối dạy văn cho trẻ em ở nhà trường phổ thông. Sai một ly sẽ chệch đi một dặm. Chẳng hạn như chuyện này: học văn để làm gì? và chuyện đường lối dạy văn tại sao lại dựa trên công việc đọc hiểu?

PV: - Vậy theo ý anh, trẻ em ở trường phổ thông học văn để làm gì?

CD: - Nói cho rộng ra, trẻ em đi học ở trường phổ thông là học cách sống để có một cái đầu lôgich, một trái tim nhân ái và một lối sống hòa thuận được với kẻ khác. Tôi xin nhấn mạnh lại: học cách sống. Cách sống đó cần được học, và được dạy đúng cách, chứ không thể học theo lối tùy tiện, luộm thuộm, tiểu nông, học theo lối bắt chước và nhại lại. Vậy là, việc học cách sống đó nằm trong việc học cách học. Đến trường, đâu phải chỉ để "kiếm dăm ba chữ"? Đâu có phải là để "năng nhặt chặt bị" thu gom các tri thức nhân loại? Nếu có thu gom, thì đó là học cách thu gom sao cho tiết kiệm nhất, và do đó mà giàu có nhất, và thu gom trong một thời hạn khiêm tốn nhất - chỉ 12 năm thôi, mười hai năm trong cả cuộc đời "sống lâu trăm tuổi" và hơn thế nữa.

PV: - Vâng, vậy theo anh, học văn để làm gì?

CD: - Với mười hai năm ở trường phổ thông, có tài thánh cũng không "truyền đạt" hết kho văn chương dân tộc và nhân loại. Nhà trường chỉ có thể dạy các em cách giải mã văn bản nghệ thuật, với cái mẫu là văn bản văn (gồm văn xuôi, thơ, và kịch). Biết cách giải mã những sản phẩm tiêu biểu đó, thì sẽ biết cách tự mình đến với các loại hình nghệ thuật khác. Do đó mà theo Công nghệ dạy văn, chúng tôi cũng gọi đó là việc trang bị cho trẻ em một ngữ pháp nghệ thuật. Không học nhiều hơn thế được đâu, mà ở trường phổ thông, cũng chỉ cần học đến như vậy là đủ. 

PV: - Anh có thể nói rõ hơn: ngữ pháp nghệ thuật là gì?

CD: - Ngữ pháp của ngôn ngữ tự nhiên thông thường gồm có những gì? Gồm có ngữ âm học, từ vựng học, cú pháp học, và văn bản học. Ngữ âm lấy đơn vị nghiên cứu là tiếng. Từ vựng lấy đơn vị nghiên cứu là từ và ngữ. Cú pháp có đơn vị nghiên cứu làcâu. Còn văn bản có đơn vị nghiên cứu là đọan  bài. Ngữ pháp nghệ thuật cũng gồm có các bộ phận cấu thành của nó. Đó làtưởng tượng gửi trong đơn vị nghiên cứu là một hình tượng. Tiếp theo, đó là liên tưởng gửi trong đơn vị nghiên cứu là một ýtương tự như một "nghĩa bóng" trong ngôn ngữ học. Sau đó là học sắp đặt gửi trong đơn vị nghiên cứu là một cấu trúc tác phẩm mà từ đó con người tạo ra một chủ đề. Ba bộ phận tưởng tượng, liên tưởng, sắp đặt vận hành trong môn văn với nhữngvật liệu là ngôn ngữ nói hoặc viết. Ba bộ phận đó cũng vận hành trong âm nhạc với vật liệu là âm thanh, trong hội họa với vật liệu là mầu, trong múa với vật liệu là thân xác… Nhà trường không cần dạy âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, điện ảnh… nhưng các thiếu niên và thanh niên đào tạo từ nhà trường phổ thông thì lại có năng lực tự đến với những bộ môn nghệ thuật kia một cách phổ thông, và những em nào muốn đi vào mấy con đường đó một cách chuyên nghiệp  thì sẽ tự chọn các trường chuyên nghiệp đó mà tự đào tạo mình tiếp.     

PV: - Ôi chao, nghe anh nói, chẳng hóa ra lâu nay môn văn bị dạy sai?

CD: - Sai! Sai về định hướng. Và suy cho cùng, môn văn ở trường phổ thông lâu nay chẳng có định hướng gì ráo! Xin nhà báo cho biết: đã có ai và   khi nào đã nói rõ mục đích dạy văn ở trường phổ thông là để đạt tới điều gì chưa? 

Nói cho đúng, hình như có ai đó đã nói về "đường lối" dạy văn theo lối đọc-hiểu thì phải. Đọc-hiểu là một khái niệm dùng cho việc học ngôn ngữ. Còn học văn, tức là học một môn nghệ thuật, thì phải là đọc-cảm mới đúng chứ? Một bà nhà quê ở Hà Tĩnh, đêm nghe Nguyễn Du đọc bản nháp kể chuyện cô Kiều, sông Tần một dải xanh xanh, loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan… Các bà có thể không hiểu gì hết về Sông Tần, về Dương Quan, nhưng các bà vẫn cảm được điều gì đó và nức nở khóc. Nghệ thuật đấy! Còn ở môn ngôn ngữ, học sinh sẽ học "một dải" khác với "một vùng" ra sao, "xanh xanh" khác với "xanh" ra sao, và làm cách gì để tự tra cứu được nghiã của "loi thoi bờ liễu"… 

Tiếc rằng các thầy đã nhầm quá lâu giữa dạy Ngữ và dạy Văn. Bao nhiêu năng lượng đã tiêu tốn cho việc nhầm lẫn đó! Ai thiệt? Trẻ em thiệt. Nhưng cuối cùng là dân tộc thiệt. Một dân tộc văn hiến mà con dân của dân tộc đó chán truyện Kiều, ghét truyện Kiều, chỉ cần nhăm nhăm học thuộc mấy đoạn để đi thi, một dân tộc như thế sao còn gọi là văn hiến nữa?

PV: - Vậy nên làm gì bây giờ? Tôi nên đặt câu hỏi này cho nhà nghiên cứu Phạm Toàn, hay cho nhà văn Châu Diên đây?

CD: - Là người có cầm bút viết văn, lại quan tâm học hỏi về nghệ thuật, nên tôi có thể hình dung được một nhà họat động nghệ thuật (trong đó có cả nhà văn) thường làm những công việc gì khi tạo ra một tác phẩm. Điều đó giúp cho tôi khá nhiều khi hoạt động trong tư thế người soạn sách học văn và trong một thời gian dài đã thực nghiệm cách học văn của trẻ em, mà đường lối là cho trẻ em đi lại con đường người nghệ sĩ đã đi. Nghĩa là cho trẻ em làm lại những thao tác trong tâm lý của người viết văn, người làm thơ, người diễn kịch. Bí quyết dạy văn ở nhà trường phổ thông nằm trong câu tôi vừa nói đấy. Nhà báo có thích in đậm thì in.   

PV: - Ngay trước mắt, có lối thoát nào không, hả anh Phạm Toàn?

CD: - Sao lại không có lối thoát? Bởi lẽ, những điều chúng ta vừa bàn không phải là những chuyện quá xa lạ, quá khó khăn. Chúng tôi đã tạo được một lớp học sinh yêu văn vì đã có cách huấn luyện một lớp giáo viên biết cách dạy văn. Ngay từ năm 1986, một cuốn sách mỏng gồm những bài văn của học sinh trường thực nghiệm Giảng Võ đã được công bố. Nhà văn Vũ Ngọc Bình, vốn là nhà giáo, và là bạn của tôi, đã viết bài điểm sách đó trên báo Văn nghệ. Trong cuốn sách đó, bài văn đầu tiên yêu cầu viết về "những ngày nghỉ hè" đã được học sinh của chúng tôi kể hết sức thực thà, là "những ngày buồn". Nhưng khi thành bài văn, đó cũng thành cái buồn giải tỏa, cái buồn làm thanh lọc nỗi niềm con người. Cũng trong sách đó, khi yêu cầu viết về tranh dân gian "Đám cưới chuột", em Vũ Thanh Bình (lớp 4) còn biết tả "ông Mèo" dặn "chú Chuột" khi mang đồ cống nạp để ông cho đám cưới được đi ngang an toàn, đã dặn đương sự "nhớ mang đến thì đi cửa sau nhé". Đó là năm 1986, năm đó chúng ta chưa có Ủy ban chống tham nhũng!

PV: - Sao cách dạy văn như thế lại không được phổ cập ra toàn quốc, thưa anh?

CD: - Chỉ cần một sự trung thực nào đó thì một đường lối dạy văn hiệu quả hơn sẽ được chấp nhận rộng khắp. Tôi hoan nghênh ý tưởng của ông bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân là sắp tới nên có nhiều bộ sách, và nhóm tác giả chúng tôi sẽ đớng góp một bộ để xã hội nghiệm thu. Nhưng tôi ngả nhiều hơn vào ý tưởng đề nghị bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đấu thầu ý tưởng soạn lại sách Văn ở trường phổ thông. Sau khi đấu thầu, sẽ có thể có ba nhóm đua nhau hoàn thành công việc.   

PV: - Xin cảm ơn anh!

Nguồn: Báo Văn nghệ đặc biệt số 35-36 (ngày 29-8 và 5-9-2009)
Đọc thêm!

Một nền giáo dục hiện đại hóa

TTác giả: Phạm Toàn


Đây là một trải nghiệm rồi trở thành một chân lý, nghĩ rằng nhắc lại cũng không thừa: nếu chỉ cần thỏa mãn nhu cầu một năm, thì trồng lúa là tạm ổn – nếu cần thỏa mãn nhu cầu mười năm, thì nên trồng cây – nếu phải thỏa mãn nhu cầu một trăm năm, thì nhất thiết phải trồng người. Việc trồng người, đến lúc này, sẽ đứng trước ít nhất ba chọn lựa: làm một cách tàm tạm - làm một cách hiện đại - làm một cách nửa tàm tạm nửa hiện đại. Ta sẽ thấy ngay rằng, cách làm ăn tàm tạm không bao giờ đồng nghĩa với chuyện "lợi ích trăm năm" cả. Còn cách làm ăn nửa tàm tạm nửa hiện đại thì cũng vậy, "trăm năm" mà cứ đan đi giặm lại (tương ứng với cải đi cách lại) thì không thuyết phục được ai hết. Ta thấy ngay điểm nhất trí của toàn xã hội: phải tiến hành công việc vì lợi ích trăm năm - công cuộc Giáo Dục – theo mục tiêu hiện đại. Đó là hướng đi hợp lý nhất.

Xã hội hiện đại hóa


Đến đây, nẩy sinh câu hỏi: vậy hiện đại là gì? Thế nào là một nền giáo dục hiện đai? Và làm thế nào để có được một nền giáo dục hiện đại? Nếu không thống nhất được khái niệm "hiện đại" thì công cuộc hiện đại hóa Giáo Dục trong công cuộc hiện đại hóa đất nước sẽ rơi vào một trong ba kiểu phí phạm: phí lời, phí tiền, phí sức. Phí lời, khi đưa ra quá nhiều khẩu hiệu, quá nhiều lời kêu gọi, quá nhiều vẻ đẹp tu từ, nhưng chẳng đi đến đâu. Phí tiền, khi những món nợ cứ chất chồng song hành với việc than phiền không đủ tiền chi tiêu cho phát triển giáo dục. Và phí sức… Hãy nhìn chỉ một sự việc này thôi thì sẽ hiểu phí sức nghĩa là gì: hai mươi triệu học sinh gò lưng dùng ba cuốn sách đính chính để chữa chín mươi triệu bản sách giáo khoa. Việc đó mới xảy ra đầu năm học 2008-2009, rất dễ kiểm chứng.

Vậy, thế nào là "hiện đại"?


Tiêu chuẩn duy nhất – dấu hiệu duy nhất – để xác định tính hiện đại trong xã hội là sự thay thế xã hội nông nghiệp bằng một xã hội công nghiệp. Xã hội công nghiệp thay cho xã hội nông nghiệp, điều đó dễ nhận thấy, và chân lý đó cũng dễ dàng chấp nhận. Nhưng còn khía cạnh sau đây thì có khi vẫn ít người chú ý tới: xã hội công nghiêp không thay thế cho xã hội nông nghịêp theo lối đột ngột, mà diễn ra trong tiến trình công nghiệp hóa dần dần. Trong tiến trình "hóa thành công nghịêp" ấy, cả một xã hội vẫn sản xuất nông nghiệp theo lối tiểu nông sẽ biến đổi, ngay cả nền nông nghịêp của mình cũng mang tính công nghiệp, để thành một nền nông nghiệp công nghiệp hóa.

Điều vô cùng quan trọng diễn ra trong tâm lý con người trong suốt tiến trình công nghiệp hóa đó. Có một chuyện mang tính chất tiểu tiết minh họa cho trạng thái tâm lý đó: cách dùng cái ốc vít. Khi cái ốc vít được dùng để gá những bộ phận cứng như sắt thép thì con người dễ chấp nhận cách làm theo lối công nghịêp. Nhưng khi dùng ốc vít vặn vào vật mềm như gỗ, rất nhiều công nhân bảy chục năm sau khi ốc vít ra đời vẫn dùng búa đóng như đóng đanh! Cách lao động đó không thuộc xã hội công nghiệp hóa, mà vẫn theo kiểu cách của xã hội nông nghiệp. Tương tự như vậy là hiện tượng công nhân khu công nghiệp hẳn hoi nhưng sau khi về quê ăn Tết thì "vui xuân" luôn và "tút" luôn. 

Người ta đổ cái tội vô kỷ luật công nghiệp đó cho phong tục, tập quán. Quả có thế; vốn là nông dân nhiều đời chỉ quẩn quanh với đồng ruộng, nên cái giai cấp công nhân nửa mùa đó rất đỗi nhớ làng nhớ xóm, nhớ cái chốn tiểu nông êm ái cũ. Phải có thời gian, và phải được giáo dục – giáo dục như một sự chuẩn bị "trồng người" và cả giáo dục thông qua kỷ luật lao động công nghiệp – thì đến một lúc nào đó, mọi người sẽ có một lối sống và một lối tư duy như những người dân các nước công nghiệp khác: họ sống ở đâu cũng được, cứ có công ăn việc làm tốt và có đời sống hạnh phúc thì sống ở đâu cũng được; họ không có khái niệm "nhớ nhà", họ không bắt chước Nguyễn Tuân sùi sụt "thiếu quê hương" rồi chen nhau mua vé về thăm quê, để được nhìn cảnh quê xưa cũng đang dần dần công nghiệp hóa.

Nhà trường hiện đại hóa 

Như ta đã thấy, một xã hội muốn hiện đại hóa nhất thiết phải đi bằng con đường công nghiệp hóa. Và công nghịêp hóa là cả một tiến trình lâu dài chứ không diễn ra một cách đột ngột như trong truyện thần tiên. Trong tiến trình công nghịêp hóa đó, mắt thường thấy mọc lên những xí nghiệp, mắt thường cũng thấy công việc "thành thị hóa nông thôn" không còn là khẩu hiệu như trong cương lĩnh của nhiều tổ chức chính trị - xã hội thế kỷ hai mươi. Mắt thường của con người cũng thấy cả nền nông nghiệp cũng thành một xí nghiệp công nghiệp kinh doanh nghề nông. 

Nhưng đây mới là điều quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa mà mắt thường khó nhận thấy: con người tạo ra hệ thống công nghịêp, và hệ thống công nghiệp vật chất, cụ thể đó cũng đào luyện trở lại con người thành những con người của nền công nghiệp. Đó là một quá trình đôi bên - nền công nghiệp và con người của nền công nghiệp - cùng sinh thành lẫn nhau. Trong quá trình cùng sinh thành đó, xã hội thành một xã hội công nghiệp hiện đại hóa, và con người biến thành con người của nền công nghiệp hiện đại hóa. 

Có hai tác nhân đào tạo ra con người công nghiệp hiện đại hóa đó. Tác nhân thứ nhất vận hành một cách tự nhiên, lối sống công nghiệp hiện đại hóa như một thói quen hình thành theo lối mưa dầm thấm lâu. Một tác nhân thứ hai là nhà trường. Đó là lý do vì sao hồi đầu thế kỷ thứ hai mươi ta được thấy nở rộ các cuộc nghiên cứu tâm lý trẻ em với mấy cột mốc vô cùng đẹp đẽ: năm 1905 với công cuộc của bác sĩ Binet điều tra đo nghiệm trẻ em trước khi vào học tiểu học, sau được vượt Đại Tây Dương và phát triển thành bộ đo nghiệm mẫu mực mang tên Binet-Simon; năm 1910 với bản tuyên ngôn của Thorndike "Đóng góp của tâm lý học cho giáo dục"; và từ năm 1920 trở đi là những công trình do Piaget tiến hành, thăm dò thực nghiệm vào cách học của trẻ em để tìm ra cách dạy các em.

Trong công cuộc trồng người đó, nếu cần lôi ra một dấu hiệu cơ bản, nếu cần quy định thành một nguyên lý về tính chất hiện đại của nhà trường, thì nó đây: một nhà trường hiểu biết sâu sắc trẻ em nhờ đó mà vừa tôn trọng trẻ em đồng thời vẫn dắt tay dẫn trẻ em vào công cuộc tự học, tự giáo dục của chính các em. 

Cũng giống như trường hợp của người lớn cùng sinh thành với công cuộc công nghiệp hóa để hiện đại hóa đất nước, trẻ em cũng cùng sinh thành với nền giáo dục tạo cho các em năng lực sống và cùng sinh thành với công cuộc công nghiệp hóa để hiện đại hóa đất nước. Đừng bao giờ có ảo tưởng tổ chức ngay một vài năm, thậm chí một vài chục năm, cho xong xuôi một nền giáo dục hiện đại. Suy nghĩ cách đó vừa là ảo tưởng lại vừa là không hiểu biết các quy luật vận động của xã hội. Nếu cố tình suy nghĩ theo cách đó thì có thể bị nghi ngờ là có động cơ không chính đính.

Trong công cuộc cùng sinh thành với đất nước, trẻ em và người lớn có một điểm giống nhau và một điểm khác nhau.

Điểm giống nhau giữa trẻ em và người lớn là cả hai đều phải bắt tay vào làm ra chính mình trong khi làm ra nền công nghiệp để hiện đại hóa đất nước (ngứoi lớn) hoặc làm ra nền giáo dục hiện đại hóa (trẻ em). Không có ai chỉ thông qua những "trò vui lấy thưởng" cùng những lời hò reo mà có thể làm nên công cuộc công nghiệp hóa hoặc làm ra nhà trường hiện đại hóa. Cả người lớn và trẻ em đều phải mó tay vào làm và học – làm thì học (tạm dịch cái đường lối learning by doing đang thời thượng bây giờ).

Trong công việc làm và học – làm thì học ấy, trong công cuộc làm được tới đâu thì học được tới đó ấy, giữa người lớn và trẻ em có chỗ khác nhau căn bản: người lớn thì dùng công cụ có sẵn và trẻ em thì phải làm ra công cụ cho mình. 

Công cụ có sẵn gửi trong cái công việc người lớn nắm giữ để công nghịêp hóa đất nước. Một người lớn không thể nói tôi yêu tổ quốc, nhưng tôi không làm công việc gì hết. Trong công việc người lớn phải làm và chụ trách nhiệm ấy, có chứa đựng sẵn cái kỹ thuật cùng chuỗi công nghệ mang tính thời đại. Một người lớn không thể nói tôi yêu công cuộc công nghịêp hóa để hiện đại hóa đất nước, nhưng tôi không tôn trọng quy trình kỹ thuật, tôi có quyền "phá" máy vì dốt kỹ thuật, tôi có quyền làm hỏng sản phẩm vì không tôn trọng công nghệ sản xuất. Cái kỷ luật lao động công nghiệp hóa chính là thước đo mức độ người lớn đã cùng sinh thành tới đâu với công cuộc hiện đại hóa đất nước. (Một mở ngoặc cần thiết: dĩ nhiên cái kỹ thuật hoặc cái chuỗi công nghệ để người lớn bắt tay vào làm và học – làm thì học không thể là kỹ thuật và công nghệ bẩn nhắm mắt nhập bừa bãi về để làm bẩn tổ quốc).

Trẻ em khác người lớn: các em tập làm ra công cụ. Và là những công cụ chuẩn cho một sự nghiệp hiện đại hóa. Thật ư? Có thể như vậy chăng? Thưa vâng, thật đó. Có thể và phải như vậy lắm. Miễn là ta thống nhất cách hiểu khái niệm công cụ nhà trường dạy cho trẻ em tự "tay" mình làm ra. Đó là cả loạt công cụ trong tư duy của các em. Bộ công cụ học tập các em phải tạo ra ngay trong đầu các em, và đó phải là bộ công cụ hiện đại hóa. Ngay từ khi bước chân vào học lớp Một, ngay từ tiết học đầu tiên, các em đã phải bắt tay tạo ra bộ công cụ đó. Bộ công cụ học tập đó ở trẻ em lớp Một cũng giống như của sinh viên năm thứ mấy của trường Đại học, với một chút khác biệt: hai bộ công cụ cùng chuẩn đó sẽ gia công trên những loại vật liệukhác nhau, thế thôi. Nhưng bất kể với vật liệu nào, thì công cụ tư duy của em bé lớp Một và anh chị sinh viên đại học cũng không được chênh nhau.

Chỗ khó khăn khi thực hiện lý tưởng giáo dục nói trên là ở năng lực bất cập của nhà tổ chức. Chống độc quyền là cần thiết, xã hội hóa là cần thiết, để có nhiều phương án hiện đại hóa nhà trường ngay từ lớp Một. Trong cuộc thi đua này, những nhà trường "hiện đại" theo lối đi vay tiền về mua đồ dùng dạy học "xịn" chắc chắn sẽ thua những nhà trường hết sức tiết kiệm chỉ có những "đồ dùng dạy học" vô hình nằm bên trong tư duy con trẻ. 

Nguồn: Vietnamnet, ngày 6 tháng 11 năm 2009
Đọc thêm!