Trang

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Một nền giáo dục hiện đại hóa

TTác giả: Phạm Toàn


Đây là một trải nghiệm rồi trở thành một chân lý, nghĩ rằng nhắc lại cũng không thừa: nếu chỉ cần thỏa mãn nhu cầu một năm, thì trồng lúa là tạm ổn – nếu cần thỏa mãn nhu cầu mười năm, thì nên trồng cây – nếu phải thỏa mãn nhu cầu một trăm năm, thì nhất thiết phải trồng người. Việc trồng người, đến lúc này, sẽ đứng trước ít nhất ba chọn lựa: làm một cách tàm tạm - làm một cách hiện đại - làm một cách nửa tàm tạm nửa hiện đại. Ta sẽ thấy ngay rằng, cách làm ăn tàm tạm không bao giờ đồng nghĩa với chuyện "lợi ích trăm năm" cả. Còn cách làm ăn nửa tàm tạm nửa hiện đại thì cũng vậy, "trăm năm" mà cứ đan đi giặm lại (tương ứng với cải đi cách lại) thì không thuyết phục được ai hết. Ta thấy ngay điểm nhất trí của toàn xã hội: phải tiến hành công việc vì lợi ích trăm năm - công cuộc Giáo Dục – theo mục tiêu hiện đại. Đó là hướng đi hợp lý nhất.

Xã hội hiện đại hóa


Đến đây, nẩy sinh câu hỏi: vậy hiện đại là gì? Thế nào là một nền giáo dục hiện đai? Và làm thế nào để có được một nền giáo dục hiện đại? Nếu không thống nhất được khái niệm "hiện đại" thì công cuộc hiện đại hóa Giáo Dục trong công cuộc hiện đại hóa đất nước sẽ rơi vào một trong ba kiểu phí phạm: phí lời, phí tiền, phí sức. Phí lời, khi đưa ra quá nhiều khẩu hiệu, quá nhiều lời kêu gọi, quá nhiều vẻ đẹp tu từ, nhưng chẳng đi đến đâu. Phí tiền, khi những món nợ cứ chất chồng song hành với việc than phiền không đủ tiền chi tiêu cho phát triển giáo dục. Và phí sức… Hãy nhìn chỉ một sự việc này thôi thì sẽ hiểu phí sức nghĩa là gì: hai mươi triệu học sinh gò lưng dùng ba cuốn sách đính chính để chữa chín mươi triệu bản sách giáo khoa. Việc đó mới xảy ra đầu năm học 2008-2009, rất dễ kiểm chứng.

Vậy, thế nào là "hiện đại"?


Tiêu chuẩn duy nhất – dấu hiệu duy nhất – để xác định tính hiện đại trong xã hội là sự thay thế xã hội nông nghiệp bằng một xã hội công nghiệp. Xã hội công nghiệp thay cho xã hội nông nghiệp, điều đó dễ nhận thấy, và chân lý đó cũng dễ dàng chấp nhận. Nhưng còn khía cạnh sau đây thì có khi vẫn ít người chú ý tới: xã hội công nghiêp không thay thế cho xã hội nông nghịêp theo lối đột ngột, mà diễn ra trong tiến trình công nghiệp hóa dần dần. Trong tiến trình "hóa thành công nghịêp" ấy, cả một xã hội vẫn sản xuất nông nghiệp theo lối tiểu nông sẽ biến đổi, ngay cả nền nông nghịêp của mình cũng mang tính công nghiệp, để thành một nền nông nghiệp công nghiệp hóa.

Điều vô cùng quan trọng diễn ra trong tâm lý con người trong suốt tiến trình công nghiệp hóa đó. Có một chuyện mang tính chất tiểu tiết minh họa cho trạng thái tâm lý đó: cách dùng cái ốc vít. Khi cái ốc vít được dùng để gá những bộ phận cứng như sắt thép thì con người dễ chấp nhận cách làm theo lối công nghịêp. Nhưng khi dùng ốc vít vặn vào vật mềm như gỗ, rất nhiều công nhân bảy chục năm sau khi ốc vít ra đời vẫn dùng búa đóng như đóng đanh! Cách lao động đó không thuộc xã hội công nghiệp hóa, mà vẫn theo kiểu cách của xã hội nông nghiệp. Tương tự như vậy là hiện tượng công nhân khu công nghiệp hẳn hoi nhưng sau khi về quê ăn Tết thì "vui xuân" luôn và "tút" luôn. 

Người ta đổ cái tội vô kỷ luật công nghiệp đó cho phong tục, tập quán. Quả có thế; vốn là nông dân nhiều đời chỉ quẩn quanh với đồng ruộng, nên cái giai cấp công nhân nửa mùa đó rất đỗi nhớ làng nhớ xóm, nhớ cái chốn tiểu nông êm ái cũ. Phải có thời gian, và phải được giáo dục – giáo dục như một sự chuẩn bị "trồng người" và cả giáo dục thông qua kỷ luật lao động công nghiệp – thì đến một lúc nào đó, mọi người sẽ có một lối sống và một lối tư duy như những người dân các nước công nghiệp khác: họ sống ở đâu cũng được, cứ có công ăn việc làm tốt và có đời sống hạnh phúc thì sống ở đâu cũng được; họ không có khái niệm "nhớ nhà", họ không bắt chước Nguyễn Tuân sùi sụt "thiếu quê hương" rồi chen nhau mua vé về thăm quê, để được nhìn cảnh quê xưa cũng đang dần dần công nghiệp hóa.

Nhà trường hiện đại hóa 

Như ta đã thấy, một xã hội muốn hiện đại hóa nhất thiết phải đi bằng con đường công nghiệp hóa. Và công nghịêp hóa là cả một tiến trình lâu dài chứ không diễn ra một cách đột ngột như trong truyện thần tiên. Trong tiến trình công nghịêp hóa đó, mắt thường thấy mọc lên những xí nghiệp, mắt thường cũng thấy công việc "thành thị hóa nông thôn" không còn là khẩu hiệu như trong cương lĩnh của nhiều tổ chức chính trị - xã hội thế kỷ hai mươi. Mắt thường của con người cũng thấy cả nền nông nghiệp cũng thành một xí nghiệp công nghiệp kinh doanh nghề nông. 

Nhưng đây mới là điều quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa mà mắt thường khó nhận thấy: con người tạo ra hệ thống công nghịêp, và hệ thống công nghiệp vật chất, cụ thể đó cũng đào luyện trở lại con người thành những con người của nền công nghiệp. Đó là một quá trình đôi bên - nền công nghiệp và con người của nền công nghiệp - cùng sinh thành lẫn nhau. Trong quá trình cùng sinh thành đó, xã hội thành một xã hội công nghiệp hiện đại hóa, và con người biến thành con người của nền công nghiệp hiện đại hóa. 

Có hai tác nhân đào tạo ra con người công nghiệp hiện đại hóa đó. Tác nhân thứ nhất vận hành một cách tự nhiên, lối sống công nghiệp hiện đại hóa như một thói quen hình thành theo lối mưa dầm thấm lâu. Một tác nhân thứ hai là nhà trường. Đó là lý do vì sao hồi đầu thế kỷ thứ hai mươi ta được thấy nở rộ các cuộc nghiên cứu tâm lý trẻ em với mấy cột mốc vô cùng đẹp đẽ: năm 1905 với công cuộc của bác sĩ Binet điều tra đo nghiệm trẻ em trước khi vào học tiểu học, sau được vượt Đại Tây Dương và phát triển thành bộ đo nghiệm mẫu mực mang tên Binet-Simon; năm 1910 với bản tuyên ngôn của Thorndike "Đóng góp của tâm lý học cho giáo dục"; và từ năm 1920 trở đi là những công trình do Piaget tiến hành, thăm dò thực nghiệm vào cách học của trẻ em để tìm ra cách dạy các em.

Trong công cuộc trồng người đó, nếu cần lôi ra một dấu hiệu cơ bản, nếu cần quy định thành một nguyên lý về tính chất hiện đại của nhà trường, thì nó đây: một nhà trường hiểu biết sâu sắc trẻ em nhờ đó mà vừa tôn trọng trẻ em đồng thời vẫn dắt tay dẫn trẻ em vào công cuộc tự học, tự giáo dục của chính các em. 

Cũng giống như trường hợp của người lớn cùng sinh thành với công cuộc công nghiệp hóa để hiện đại hóa đất nước, trẻ em cũng cùng sinh thành với nền giáo dục tạo cho các em năng lực sống và cùng sinh thành với công cuộc công nghiệp hóa để hiện đại hóa đất nước. Đừng bao giờ có ảo tưởng tổ chức ngay một vài năm, thậm chí một vài chục năm, cho xong xuôi một nền giáo dục hiện đại. Suy nghĩ cách đó vừa là ảo tưởng lại vừa là không hiểu biết các quy luật vận động của xã hội. Nếu cố tình suy nghĩ theo cách đó thì có thể bị nghi ngờ là có động cơ không chính đính.

Trong công cuộc cùng sinh thành với đất nước, trẻ em và người lớn có một điểm giống nhau và một điểm khác nhau.

Điểm giống nhau giữa trẻ em và người lớn là cả hai đều phải bắt tay vào làm ra chính mình trong khi làm ra nền công nghiệp để hiện đại hóa đất nước (ngứoi lớn) hoặc làm ra nền giáo dục hiện đại hóa (trẻ em). Không có ai chỉ thông qua những "trò vui lấy thưởng" cùng những lời hò reo mà có thể làm nên công cuộc công nghiệp hóa hoặc làm ra nhà trường hiện đại hóa. Cả người lớn và trẻ em đều phải mó tay vào làm và học – làm thì học (tạm dịch cái đường lối learning by doing đang thời thượng bây giờ).

Trong công việc làm và học – làm thì học ấy, trong công cuộc làm được tới đâu thì học được tới đó ấy, giữa người lớn và trẻ em có chỗ khác nhau căn bản: người lớn thì dùng công cụ có sẵn và trẻ em thì phải làm ra công cụ cho mình. 

Công cụ có sẵn gửi trong cái công việc người lớn nắm giữ để công nghịêp hóa đất nước. Một người lớn không thể nói tôi yêu tổ quốc, nhưng tôi không làm công việc gì hết. Trong công việc người lớn phải làm và chụ trách nhiệm ấy, có chứa đựng sẵn cái kỹ thuật cùng chuỗi công nghệ mang tính thời đại. Một người lớn không thể nói tôi yêu công cuộc công nghịêp hóa để hiện đại hóa đất nước, nhưng tôi không tôn trọng quy trình kỹ thuật, tôi có quyền "phá" máy vì dốt kỹ thuật, tôi có quyền làm hỏng sản phẩm vì không tôn trọng công nghệ sản xuất. Cái kỷ luật lao động công nghiệp hóa chính là thước đo mức độ người lớn đã cùng sinh thành tới đâu với công cuộc hiện đại hóa đất nước. (Một mở ngoặc cần thiết: dĩ nhiên cái kỹ thuật hoặc cái chuỗi công nghệ để người lớn bắt tay vào làm và học – làm thì học không thể là kỹ thuật và công nghệ bẩn nhắm mắt nhập bừa bãi về để làm bẩn tổ quốc).

Trẻ em khác người lớn: các em tập làm ra công cụ. Và là những công cụ chuẩn cho một sự nghiệp hiện đại hóa. Thật ư? Có thể như vậy chăng? Thưa vâng, thật đó. Có thể và phải như vậy lắm. Miễn là ta thống nhất cách hiểu khái niệm công cụ nhà trường dạy cho trẻ em tự "tay" mình làm ra. Đó là cả loạt công cụ trong tư duy của các em. Bộ công cụ học tập các em phải tạo ra ngay trong đầu các em, và đó phải là bộ công cụ hiện đại hóa. Ngay từ khi bước chân vào học lớp Một, ngay từ tiết học đầu tiên, các em đã phải bắt tay tạo ra bộ công cụ đó. Bộ công cụ học tập đó ở trẻ em lớp Một cũng giống như của sinh viên năm thứ mấy của trường Đại học, với một chút khác biệt: hai bộ công cụ cùng chuẩn đó sẽ gia công trên những loại vật liệukhác nhau, thế thôi. Nhưng bất kể với vật liệu nào, thì công cụ tư duy của em bé lớp Một và anh chị sinh viên đại học cũng không được chênh nhau.

Chỗ khó khăn khi thực hiện lý tưởng giáo dục nói trên là ở năng lực bất cập của nhà tổ chức. Chống độc quyền là cần thiết, xã hội hóa là cần thiết, để có nhiều phương án hiện đại hóa nhà trường ngay từ lớp Một. Trong cuộc thi đua này, những nhà trường "hiện đại" theo lối đi vay tiền về mua đồ dùng dạy học "xịn" chắc chắn sẽ thua những nhà trường hết sức tiết kiệm chỉ có những "đồ dùng dạy học" vô hình nằm bên trong tư duy con trẻ. 

Nguồn: Vietnamnet, ngày 6 tháng 11 năm 2009
Đọc thêm!

Triết học và lịch sử

HỒ NGỌC ĐẠI
Blog phamxuannguyen

(Bài giảng của giáo sư Hồ Ngọc Đại tại trường viết văn Nguyễn Du. Giáo sư đầu bạc trắng, áo trắng, quần trắng, giọng nói sang sảng, giọng điệu hài hước và thẳng thừng).

5 điều cơ bản của buổi học:
1. Sự tương quan giữa triết học và lịch sử.
2. Sự tồi tệ của nghị quyết và chính sách.
3. Sự cần thiết của mở rộng/ phá bỏ tư duy cũ.
4. Phát hiện lớn nhất của con người là Công Nghệ Sinh Đẻ.
5. Ta tạo ra chính mình.
Tôi xin nói ngay là, tôi nói điều tôi nói, còn tiếp nhận hay không là việc của các anh các chị. Thơ dù đề là "Vô đề/ Không đề" thì vẫn cứ là có đề. Vậy hôm nay bài giảng của tôi có đầu đề là "Triết học và lịch sử"..

Có hai vấn đề tôi cho là cơ bản nhất trong các vấn đề cơ bản: triết học và lịch sử. Xin nhớ cho rằng, chúng ta không mày mò điều mà nhân loại đã đi qua. Ta sinh ra thế giới đã có sẵn, anh buộc phải chấp nhận những điều có sẵn đó. Và ta phải chịu quá nhiều sức ép. Dưới những sức ép không gì cưỡng lại đó, ta cứ ngỡ là mình được tự do.

Anh ngồi yên ở đây, anh phải chịu sức ép của không khí, phải chịu lực hút của Trái Đất. Ta thấy điều đó là tự nhiên, ai cũng phải chịu những sức ép ấy, vậy là chẳng ai phải chịu sức ép cả.

Quay lại với triết học và lịch sử. Tính triết học được hiểu là cái lý cuối cùng của cuộc đời (không thấy được bằng mắt); còn lịch sử được hiểu là cái có thật, cái đã/đang/sẽ có thật, hoàn toàn trần trụi.

Mấy ngàn năm nay, nhân loại bao giờ cũng đứng trước hai vấn đề: triết học (tinh thần) và lịch sử (vật chất). Nhà văn như các bạn là phải hiểu vật chất một cách rất tinh thần.

Tôi chẳng hiểu tại sao lại có thứ câu hỏi ngu xuẩn đến thế, không hiểu sao có loại nhà trường ngu như thế! Đấy là cứ đặt ra hai câu hỏi cho học sinh: vật chất có trước hay tinh thần có trước? Cái nào quyết định cái nào? Điên à! Như mấy anh nào cứ hỏi con gà có trước hay quả trứng có trước ấy, hỏi để làm gì?

Lịch sử và triết học tương đương nhau. Hegel nói: "Lịch sử và triết học là hai hình thái tương đương nhau". Anh chị chú ý chữ "hình thái", hay là "hình thức" ở đây. Hôm nay tôi mặc áo màu trắng, ngày mai tôi mặc áo đỏ, hoặc có lúc nào có chị gặp tôi không mặc áo gì cả, vẫn nhận ra tôi. Bởi đó chỉ là hình thức thôi.

Triết học và lịch sử có sự chuyển hóa lẫn nhau. Ngày xưa vợ chồng gọi nhau là "mình" là triết học nhất. Mình mà lại không phải là mình. Bây giờ không còn gọi nhau như thế là bởi nhiều mình quá. Và phải hiểu rằng khi gọi "thằng chồng" là đã ám chỉ có "con vợ" ở trong rồi.

Tư duy quá rạch ròi tạo ra trình độ thấp. Cái nhìn thấy chứa cái không nhìn thấy.

(Giáo sư giơ cánh tay lên) Tôi đố các anh các chị đây là cái gì? (Hội trường: cánh tay). Cánh tay à? À, tôi nghe thấy có chị nào bên dưới bảo đây là cái gối. Đúng đấy, với riêng chị có thể đây là cái gối. Với người khác có thể là gọng kìm, là quả đấm.

Hiểu rõ hai vấn đề, nhìn thấy hai mặt của một sự việc, các anh chị sẽ viết văn thoải mái hơn. Trên đời không có cái gì tồn tại đơn độc hết. Trong đời, cư xử cũng chính là một dạng triết học. Như tôi, giảng bài cho các anh các chị thì là Giáo sư, nói những gì, quay ngang quay dọc ra sao, nhìn ngó thế nào. Tôi về nhà, vợ gọi: "Đại đâu?" là phải "Dạ!" ngay (GS khoanh tay cúi đầu), không thì chết với nó.

Tiếp theo, tôi xin nói về "Siêu hình, biện chứng". Hegel nói, "Toàn bộ triết học thâu tóm vào phương pháp". Có hai phương pháp cơ bản: siêu hình và biện chứng.
  • Siêu hình.
Hegel được coi như "ông trùm của duy tâm". Ông nói: "Các nhà triết học phê bình tôi, họ tưởng tôi cũng ngu như bọn duy vật".

VD: các cô trong đây giữ cho mình một cái ảnh trẻ nhất, đẹp nhất, mỗi khi ai hỏi thì đem ra khoe, hoặc yêu mến ai đem ra tặng. Các cô ngày thường có thể đanh đá, chua ngoa cau có, nhưng bức ảnh chụp lại một tích tắc đẹp và chặn đứng sự vận động của nó (siêu hình). Cái ảnh đó là sự thật, không hề bịa, nhưng lại sai (ngày thường con bé đành hanh, sao trong ảnh lại hiền dịu thế).
  • Biện chứng.
Tức là để sự vật vận động và nghiên cứu nó trong lịch sử. Như thế thật mà không thật. Xem phim là một điển hình về biện chứng giả (thực chất là những siêu hình kế tiếp).

Mấy nghị quyết của Nhà nước giả là vì thế: cuộc sống vận động, nhưng nghị quyết thì đứng. Ngu thế chứ! Điển hình của sự sống là luôn luôn vận động. Hãy xem những nghị quyết như những cuốn tiểu thuyết. Hai đứa đấy lúc đầu gặp nhau thì chúng nó vui, chắc gì cả đời còn lại chúng nó vui?

Mà tư duy kiểu Việt Nam: không sai là đúng, không đúng là sai, có chết không.

Trong văn chương, anh không bao giờ là anh thì anh mới là anh. Anh luôn luôn là anh thì anh chết. Sự ổn định chỉ là ước lệ.

Như vậy, hãy tin vào Triết học, nhưng cũng không nên tin vào Triết học.

Không phải đi đâu xa, cuộc sống chính là lịch sử. Ta sinh ra từ đó và ta sống chết với nó. Cho nên các bà già nông thôn triết học lắm. Triết học cao thì nhìn cuộc sống rõ. Cuộc sống đích thực thì triết học mới cao được.

Ở thế hệ của chúng ta, cuộc sống vận động rất nhanh. Marx nói: "Rồi có lúc một ngày bằng 20 năm", chính là lúc này đây.

Marx nói: "Lịch sử là tự nhiên". Khái niệm "lịch sử" ở đây chính là cuộc sống thực, là thực tiễn, là hiện thực, là hiện thực khách quan, như các anh chị thường dùng. Hồi đó Marx tí tuổi đầu, chưa tới 30, mà một ông GS 70 tuổi vẫn phải trích dẫn (ý GS tự nói mình) thì các anh chị biết là Marx giỏi thế nào.

Triết lý cuộc sống hết sức đơn giản: muốn gì thì gì, cứ phải sống đã. Engels nói: "Sống là sự trao đổi chất". "Trao đổi" tức là phải có hai bên, có chất trao đổi, có sự vận động về thời gian và không gian. "Lịch sử là tự nhiên". Thế tức là cái gì tự nhiên nhất thì vĩ đại nhất.

Cứ nống lên là vĩ đại à? Việt Nam buồn cười. Thi đua khác nào kiễng chân lên, có tăng được chiều cao đâu. Nước ta thế, khẩu hiệu càng nhiều, đất nước càng khốn nạn.

Năm 69,70 gì đó, tôi sang Liên Xô học. Những người bạn Liên Xô nói với nhau: "Các bạn ơi, chúng ta nên thương anh Đại. Cái mà chúng ta sắp đổ rồi thì anh Đại sang học".

Họ khuyên tôi nên đọc Platon, Kant, Hegel, Marx - chỉ cần đọc 4 ông ấy thôi - và chú thích cách đọc: thứ nhất, lúc nào chán không còn việc gì làm nữa thì hẵng đọc; thứ hai, đừng đọc theo hệ thống, hãy đọc lung tung bạ đâu đọc đấy. Tôi không hiểu nổi những lời khuyên của họ. Nhưng chính cách đọc ấy làm tôi mở rộng tư duy, không theo khuôn thước nữa.

Các giáo trình triết học bây giờ buồn cười, bảo sai thì không sai, nhưng mà học chẳng để làm gì.

Có mấy người mời tôi đến dạy, sợ không đủ thù lao. Trời ơi, sinh viên là thù lao lớn nhất đối với tôi. Mà chính ra họ sợ tôi đến làm loạn sinh viên. Sinh viên là bọn dễ nổi loạn nhất.

Trong trường học, các anh chị toàn dạy Dao, Kéo cả, chẳng thấy Mác (Marx) đâu hết.

Marx nói: từ trước đến giờ, các cuộc cách mạng đều là của số ít, không thấy cuộc cách mạng nào là của số đông. Ông hi vọng ở cuộc cách mạng tư sản Pháp, nhưng về sau ông thất vọng.

Các anh chị xem này, lúc đầu có hai loại người là "chủ nô và nô lệ". Hai loại này bị thay thế bởi "địa chủ và nông dân". Hai loại này lại bị thay thế bởi "tư sản và vô sản". Thế bây giờ muốn tư sản chết mà mỗi vô sản sống thôi à? Vô lý! Thằng đấy chết phải có thằng khác thay vào, hoặc là phải có hai thằng mới.

Có phải về mặt triết học, "nông dân" là phản động, bởi họ đại diện cho phương thức sản xuất cũ nên phải hủy bỏ không?

Ông .... hỏi tôi có gì trách Đảng không. Tôi bảo, tôi giận chứ tôi không trách, mà tôi quý tôi mới giận. Thứ nhất, ngàn đời nay Việt Nam toàn nông dân, nhưng chính sách với nông dân tệ quá. Các vị cũng từ nông dân mà ra chứ đâu. Thứ hai là chính sách với trí thức. Bọn này cực kỳ yêu nước, chỉ phải tội chúng nó hay chửi lung tung, thì Đảng hay cà khịa với chúng nó.

Lúc đầu trên đời không có gì hết, chỉ là một thế giới vô cơ. Sau đó xuất hiện sự sống hữu cơ, rồi có thực vật và động vật. Lịch sử luôn sáng tạo ra cái mới. Đến khi con người ra đời thì toàn bộ cơ sở tự nhiên đã có rồi.

Về mặt lịch sử, ta có cơ thể người. Về mặt triết học, ta có "phạm trù người".

Người là sản phẩm sau cùng của lịch sử tự nhiên. Việc mà toàn bộ lịch sử tự nhiên làm suốt tỉ tỉ năm qua thâu tóm vào trong CÔNG NGHỆ SINH ĐẺ. Đó là tinh túy của lịch sử.

Ta biết rằng ông Trời làm khoán, rất chắc chắn, an toàn tuyệt đối: con bò sẽ đẻ ra con bò, con vịt lại đẻ ra con vịt,... Và muôn loài cho gì hưởng nấy.

Riêng con người tự sinh ra mình, qua lao động. Loài người là loài ương bướng.

Con khỉ đầu tiên đi bằng hai chân, thể nào cũng bị đồng loại phê bình, họp kiểm điểm mạnh lắm. Cũng như cái anh đầu tiên nghĩ tới việc đi xe đạp, khác hẳn việc cưỡi ngựa hoặc đi xe ngựa (vẫn là dùng sức bộ), chắc chắn sẽ bị hàng xóm cười: "Thể nào nó chẳng ngã?".

Nhưng có xe đạp, loài người mới được giải phóng tư duy, rồi mới có ô tô, máy bay, đỡ sức.

Nói về chữ "RA SỨC". "Ra sức" để làm gì, ngu muội! Tôi đi ô tô, tôi nhẹ nhàng khởi động xe, không việc gì phải dùng sức hết. Thế lẽ ra phải đề cao mấy thằng "không ra sức", đằng này lúc nào cũng hô hào "ra sức", có điên không.

Con người ta vĩ đại là ở tinh thần, không ở thể xác. Ông Marx cao có 153cm, nếu đi thi hoa hậu thì ông cao vừa đến eo, mà với mãi hai tay lên chưa chắc đã với được đến chỗ cần với. Nhưng ông vẫn vĩ đại. Như vậy là tinh thần quan trọng hơn cơ thể.

Tôi nói câu này: "Con người là một thực thể tinh thần" - cái này nhiều ông sợ không dám nói. Con người là một thực thể tinh thần, do đó loài người tự sinh ra mình, bất chấp Kinh Thánh.

Ta quen "Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày,..." Tư duy hèn hạ. Lại còn "Nước, phân, cần, giống", nghe thì rất vĩ đại khi khái quát nó lên, nhưng đồng thời cũng rất chung chung. Bao nhiêu "nước"? "Phân" lúc nào?

(Quay lại công nghệ sinh đẻ) Cuối thế kỷ XIX, người ta phát hiện ra cơ chế thụ thai. Trước đó thì có con là việc trời cho. Bây giờ muốn lúc nào có lúc đấy, có hay không đều được. Bây giờ "coi trời bằng vung", dám làm rồi.

Và có công nghệ sản xuất vật chất thì ắt phải có công nghệ sản xuất tinh thần.

Người ta hỏi tôi: 30, 40 năm qua, anh làm được gì? Tôi đáp, ngần ấy năm tôi chỉ làm được có ba chữ thôi.

(Ba chữ gì?)

Có ba chữ thôi.

(Nhưng là ba chữ gì?)

HỒ NGỌC ĐẠI!

(cả hội trường ồ lên vỗ tay).

Tôi xin kết thúc bài giảng ở đây.

(tôi cũng xin kết thúc bài ghi ở đây).

Văn bản do nhà văn Châu Diên cung cấp
Đọc thêm!

Vài Con Số Liên Quan Đến Giáo Dục và Đôi Điều Suy Ngẫm

Viễn Xứ

I. Số lượng. 


Theo cơ quan kiểm tra dân số của chính phủ Mỹ thì đến năm 2007 nước Mỹ có 302 triệu người. Nước Mỹ có tổng cộng 4352 trường đào tạo sau chương trình phổ thông trung học gồm 2675 trường đào tạo hệ 4 năm và 1677 trường đào tạo hệ 2 năm. Trong 2675 trường đào tạo hệ 4 năm thì có 653 trường thuộc hệ trường công và 2022 trường thuộc hệ trường tư. Tuy có 2675 trường đại học, nhưng nước Mỹ chỉ có 282 trường đại học đào tạo và cấp bằng Tiến sĩ. Một con số rất là khiêm nhường, mặc dù Mỹ là nước đi tiên phong trong các lãnh vực khoa học công nghệ cao cũng như Y tế, và xã hội học.


Việt Nam hiện nay có khoản 85 triệu người. Việtnam hiện nay có khoản 400 trường đại học bao gồm cả hệ 4 năm và hệ 2 năm. Trong số đó thì không quá 30 trường là trường tư. Còn lại là trường công lập.  Tuy có 400 trường đại học các loại nhưng Việt Nam có hơn 100 trường đại học đào tạo và cấp bằng Tiến sĩ. Một con số có thể nói là quá nhiều.


II. Hoạt động của các trường đại học. 

Dù tư hay công, các trường đại học ở Mỹ đều vận hành độc lập với chính quyền tiểu bang cũng như chính quyền liên bang. Nói như vậy không có nghĩa là chính quyền sở tại không có chút ảnh hưởng gì đến các trường đại học. Vì hàng năm, các trường đại học công lập đều nhận được một khoản tiền nào đó từ chính quyền. Nhưng tài trợ tài chính không có nghĩa là chính quyền muốn sao là trường phải làm như vậy. Nhất là những kiểu muốn “Con tôi thiếu một điểm mà anh không cho nó đậu được à?” thì càng không thể xảy ra ở các trường đại học Mỹ.


Hiệu trưởng của trường phải được tuyển chọn công khai như người đi xin việc ở các công ty. Nhiều người nộp đơn cho chức vụ Hiệu trưởng và sau nhiều lần phỏng vấn thì tiểu ban tuyển chọn sẽ chọn người thích hợp nhất dựa vào năng lực, kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng giao tiếp…. Tuyệt nhiên không có chỗ cho sự “quen biết”, “gởi gấm”, hay “chạy chọt chạy chức”… gì cả. Người đứng đầu của  trường đã vậy thì tất cả những nhân viên khác của trường từ Giáo Sư đến người quét rác cũng theo luật đó mà làm là điều đương nhiên.

Các trường đại học công lập ở Mỹ hoạt động như một công ty kinh doanh. Do đó, nếu không tìm hiểu kỹ thì sẽ dễ dàng ngộ nhận hay có những kết luận sai lầm. Năm ngoái, ở Việt Nam có một số người đưa ra ý kiến nên tư nhân hóa các trường đại học như mô hình trường tư ở Mỹ. Tất nhiên là điều này không có gì sai trái cả. Chỉ có điều khác biệt là các trường đại học tư ở Mỹ kinh doanh kiếm lời nhưng tiền lời chỉ dùng để mở mang trường lớp chứ không vì tư lợi cá nhân. Nếu không phân biệt được điều này và làm được điều này thì tư nhân hóa các trường đại học ở Việt Nam sẽ là một thảm họa.

Đại học Harvard sở hữu môt tài sản và quản lý một kinh phí nhiều tỉ đô la. Nhưng thu chi của trường rất quy củ và chính xác. Bao nhiêu phần trăm để trả lương cho nhân viên. Bao nhiêu phần trăm để đầu tư cho trường lớp. Bao nhiêu phần trăm đầu tư cho nghiên cứu khoa học….. v.v.
Tuyệt nhiên không có những chuyện như “em thủ quỹ thấy tiền thì nay mượn ít, mai mượn ít rồi không trả vì không thấy ai đòi..” Hay trường tự trả lương cao ngất ngưỡng cho một số nhân viên nào đó như chuyện Giảng viên Đại học Ngân hàng ở Việt Nam nhận lương tiền tỉ được báo chí đưa ra dư luận cách đây vài ngày.

Một điểm độc đáo khác biệt của các trường đại học Mỹ là tính “phi chính trị”. Mỹ là xứ nhiều tự do dân chủ. Nhưng trong các trường đại học thì không được phép có đảng phái. Dù là trường tư hay trường công cũng thế thôi: không đảng phái. Do đó, sẽ không bao giờ thấy chi bộ hay chi đoàn, hay Đảng ủy trong các trường đại học Mỹ. Thay vào đó là các hiệp hội như Hiệp hội kỹ sư điện, Hiệp hội kỹ sư xây dựng …. mà thôi.

Tuy nhiên, trường không cấm nhân viên hay sinh viên tham gia các hoạt động chính trị ngoài xã hội. Muốn vào Đảng Dân chủ, Đảng Cộng hòa, hay Đảng Xanh, Đảng Đỏ nào đó là quyền của mọi người. Đó là thời gian của sau công việc của mỗi cá nhân. Còn khi vào làm việc trong trường thì không được sinh hoạt những chuyện này trong khuôn viên nhà trường. Từ đó, chuyện bè phái đảng nọ đảng kia để rồi bợ đỡ lẫn nhau không có đất để phát triển.

III.Đào tạo và nguồn nhân lực đầu ra từ các trường đại học 

Các trường đại học Mỹ đào tạo theo hướng giúp sinh viên phát triển độc lập thay vì đào tạo theo kiểu cứng nhắc “trước sao sau vậy”! Và càng không có chuyện “định hướng tư tưởng” cho sinh viên. Cũng không có chuyện sợ “hạ uy tín lãnh đạo là Bác Bush hay Bác Obama”! Do vậy, mối liên hệ giữa Thầy và Trò có phần thoải mái hơn vì không có tâm lý sợ hãi.

Các trường đại học coi trọng tính trách nhiệm với công việc. Do vậy, người Mỹ không cảm thấy xấu hổ khi nhìn nhận là mình sai hay nói lời xin lỗi. Hòa đồng với những người xung quanh cũng là một yếu tố quan trọng để thành công trong công việc. Vì vậy, trước khi ra trường, các Giáo sư đứng lớp bao giờ cũng chuyển đến cho sinh viên năm cuối thông điệp quan trọng này. Rồi kỷ luật và tính chấp hành cũng là một điều luôn được các Giá sư nói đến. Do đó, với ngưòi Mỹ, không có gì là xấu hổ khi một Tiến sĩ lại làm việc dưới quyền của người chỉ có bằng Kỹ sư. Công việc là công việc. Quan điểm của người Mỹ là vậy.

Năm ngoái, có vị Tiến sĩ làm việc ở Sở Nội vụ Hànội đưa ra đề nghị sẽ đào tạo hàng loạt Tiến sĩ để đến năm 2020, Hànội sẽ có 100% quan chức là Tiến sĩ. Chỉ vì theo vị Tiến sĩ này thì làm cấp trên mà không có bằng Tiến sĩ thì khác nào “đẽo chân cho vừa giày”! Một ý tưởng độc đáo và quả là không tệ. Chỉ có điều người viết giật mình và té cái đùng xuống đất khi biết những người đứng đầu các công ty danh tiếng của Mỹ như General Electric hay Boeing đều chỉ mới có bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh (M.B.A) mà thôi! Cả Boeing hay G.E thì có cả ngàn nhân viên có bằng Tiến sĩ. Thậm chí cỡ Khoa học gia hay Bác học cũng có vì đây là những công ty kỹ nghệ khoa học cao nhất nhì nước Mỹ. Thế mới biết bọn Mỹ còn thua ta xa lắm!

Hàng năm, các trường đại học Mỹ cho ra hơn 100 ngàn kỹ sư cho tất cả các ngành. Và số kỹ sư mới ra trường này sẽ vào làm cho các công ty của Mỹ.  Theo nghiên cứu của Hiệp Hội Công Nghiệp Hàng Không của Mỹ thì nguồn nhân lực làm công việc khoa học và công việc kỹ sư chỉ chiếm 4% số người lao động ở Mỹ. Nhưng 4% nhân lực này tạo ra công ăn việc làm cho 96% nhân lực còn lại của thị trường lao đông nước Mỹ.

Việt Nam hiện nay có bao nhiêu người làm công việc khoa học và công việc kỹ sư? Và nguồn công việc tạo ra từ nguồn nhân lực nào là bao nhiêu? Một con số cần được quan tâm. Ngoài ra, hàng năm các trường đại học cho ra bao nhiêu kỹ sư? Một con số chắc là không nhỏ. Nhưng có bao nhiêu người làm đúng với ngành mình đã học để tạo ra công việc cho người khác. Và nếu như ý tưởng của vị Tiến sĩ đáng kính trên đây thành công thì người lao động chân tay lại phải đi nuôi người có bằng Tiến sĩ!

Đến các dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên được mệnh danh là “chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ nhằm công nghiệp hóa ngành luyện nhôm” của nước nhà. Nhưng thử hỏi có bao nhiêu kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ, và khoa học gia làm việc ở đó? Đến những công việc chân tay như “đào đất, đào giếng..” mà còn phải đem công nhân từ Trung Quốc qua làm. Vậy thì còn có chỗ cho kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ, và khoa học gia làm trong các dự án này hay chăng? Một câu hỏi chắc khó trả lời!!!

Ngoài ra, một điều quan trọng khiến các trường đại học Mỹ thành công cũng như nâng cao chất lượng của trường là dám nhìn vào sự thật để tìm ra cách giải quyết tốt nhất. Xin hãy khoan nói đến vị trí các trường đại học Mỹ trên bảng xếp hạng của các trường đại học trên thế giới. Chỉ cần nhìn vào con số các giải Nobel danh giá mà các Giáo sư các trường đại học Mỹ đem về cho nước Mỹ đủ để những người khó tính nhất phải cúi đầu khâm phục. Nước Mỹ đoạt 39% tổng số giải Nobel của Thế giới. Trong đó, các giải Nobel liên quan đến Khoa học tự nhiên là 47% trong tổng số các giải Nobel trong lãnh vực khoa học của thế giới.

Với những con số đáng nể về số trường đại học; với những con số đáng nể về giá trị tài sản sở hữu cùng những khoản kinh phí khồng lồ; với những con số đáng nể về giải Nobel danh giá; với những con số đáng nể về những công trình nghiên cứu khoa học giá trị được công bố trên các tạp chí nổi tiếng của thế giới; với những con số đáng nể về những công ty khoa học kỹ nghệ cao hàng đầu của thế giới; với cả trăm ngàn kỹ sư ra hàng năm; thì sẽ là một điều ngớ ngẩn nếu như có ai đó nói rằng Chính phủ Mỹ, các trường đại học Mỹ, cùng các công ty Mỹ cần quan tâm và tìm cách giải quyết trước khi khủng hoảng nguồn nhân lực kỹ sư trong tương lai.

Theo nghiên cứu của Hiệp hội công nghiệp Hàng không của Mỹ năm 2008 thì nếu chính phủ Mỹ, các trường đại học Mỹ, cùng các công ty Mỹ không có kế hoạch thích hợp thì nước Mỹ sẽ lâm vào khủng hoảng nguồn nhân lực kỹ sư trong tương lai. Một điều mà người viết không khỏi ngạc nhiên khi đọc bản nghiên cứu giá trị này.

Điều đáng để mọi người cùng suy ngẫm cũng như học hỏi thì sau khi bản nghiên cứu của Hiệp hội công nghiệp Hàng không của Mỹ năm 2008 được công bố. Không có ai lên tiếng để phản đối hay bảo rằng bản nghiên cứu này là vớ vẩn không đáng tin cậy!

Trong khi đó người Việt Nam chúng ta thì sao? Khi Harvard Việt Nam được công bố, rất nhiều người đã tỏ ra bất bình vì công trình nghiên cứu này. Rồi khi Giáo sư Hoàng Tụy, vị Giáo sư đáng kính, người đi tiên phong trong nền Giáo dục của Việt Nam thời hiện đại viết bài gióng hồi chuông cảnh tỉnh cho nền Giáo dục đại học nước nhà trên đăng trên Tia Sáng thì Tia Sáng trở thành Tia Tối!
Các trường đại học Mỹ đang ở đâu? Các trường đại học Việt Nam đang ở đâu? Có lẽ, mọi người trong chúng ta đều biết nhưng chỉ vì một vài lý do nào đó mà chúng ta không dám hay chưa thể nói ra chăng? Con đường dẫn lên đỉnh núi thật vất vả và khiến người leo núi phải cố gắng hết mình. Để rồi, người leo núi nhận được một phần thưởng vô giá. Từ đây, anh ta sẽ có thể phóng tầm mắt ra khắp mọi chân trời và tận hưởng những giây phút vô giá vì tầm nhìn của mình không bị che khuất. Trong khi đó, con ếch cũng nhìn được một vòng trời cao vời vợi mà không tốn chút hơi sức nào để di chuyển cái bụng to bự của mình. Chỉ có điều, những gì con ếch có cái bụng to bự nhìn thấy chỉ là một khoảng vòm trời đã bị che chắn. Và đó là một sự khác biệt, một sự khác biệt gấp ngàn lần giữa người leo núi và con ếch trong đáy giếng chật hẹp.


IV. Thay cho lời kết.

Với con số mấy ngàn trường đại học như Mỹ, nhưng vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục đâu có “mất ngủ” hay phải đi đôn đốc kiểm tra chất lượng các trường đại học bao giờ. Vậy thì, tại sao Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân lại phải “mất ngủ” và vất vả đi kiểm tra đến thế? Có phải chăng đó là do cơ chế và cơ chế dùng người? Xin được nghe lời cao kiến từ mọi người cho câu hỏi này!
Đọc thêm!

Bộ Giáo dục đạt mục tiêu đổi mới bằng cách nào?

Tiếp theo sau chỉ thị 296/CT-TTg của Thủ tướng, toàn ngành giáo dục đang ráo riết triển khai kế hoạch đổi mới quản lý trong 3 năm 2010-2012. Mục tiêu của việc đổi mới là “tạo sự đổi mới toàn diện của GDĐH, từ đó bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học một cách bền vững” (SGGP 1/3/2010).

Quyết tâm cao nhưng tư duy cũ


Có thể thấy Bộ Giáo dục và Đào tạo đang có quyết tâm rất cao để đổi mới quản lý. Điều này thể hiện qua nhiều động thái dứt khoát, quyết liệt gần đây. Trước hết là tổ chức hội nghị toàn ngành qua 6 đầu cầu truyền hình để triển khai chương trình hành động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục vào ngày 6/3/2010 (Phụ Nữ TP HCM 9/3/2010). Rồi một loạt hành động hỗ trợ, giám sát và chế tài, như hoàn thiện dự thảo hướng dẫn các trường xây dựng và công bố chuẩn đầu ra (SGGP 11/3/2010). Giảm 30 ngàn chỉ tiêu tuyển sinh của các trường do thiếu điều kiện đảm bảo chất lượng (dựa trên 2 chỉ số là diện tích xây dựng và tỷ lệ giảng viên trên sinh viên) (Tiền Phong 12/3/2010). Nhắc nhở các cơ sở đào tạo ĐH-CĐ về việc báo cáo hiện trạng về công tác đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường vào ngày 16/3/2010 (SGGP 16/3/2010). Và còn nữa, cả một chương trình hành động dày đặc đang chờ toàn ngành giáo dục triển khai trong vòng vài năm tới.




Dứt khoát thế, quyết tâm thế, và nỗ lực thế, nhưng dường như chương trình hành động của Bộ chưa nhiều yếu tố mới. Vẫn là chỉ thị từ trên xuống, vận động toàn ngành thảo luận thống nhất nhận thức, lên chương trình hành động cho toàn ngành, xiết chặt kiểm soát, kiên quyết xử lý các vi phạm. Tất cả những điều này đã có sẵn trong cơ chế từ trước đến nay, dù có lúc chưa được thực hiện nghiêm túc hết mức. Sự tăng cường kiểm soát của Bộ có lẽ sẽ có tác dụng để nâng cao chất lượng trong thời gian trước mắt, nhưng không phải là một cơ chế bền vững. Bởi một lẽ đơn giản: thời gian đâu, công sức đâu, và cả kinh phí đâu nữa, để Bộ có thể kiểm tra sâu sát đến từng trường và thực hiện chế tài cho mỗi vi phạm cụ thể mãi được?


Theo cách quản lý hiện nay, công việc của Bộ thực sự nặng nề, có thể nói là quá tải. Chỉ cần nhìn lịch làm việc dày đặc của lãnh đạo Bộ là rõ. Sự quá tải này có lẽ là một trong những lý do của tình trạng “buông lỏng quản lý” của Bộ Giáo dục mà dư luận đã nhiều lần lên án. Trong khi đó, sự phát triển giáo dục về số lượng của Việt Nam trong những năm tới sẽ vẫn tiếp tục tăng lên. Số trường đại học, cao đẳng sẽ tăng lên đến 600 trường vào năm 2020. Rồi các chỉ tiêu cho đến nay đã thấy rõ là rất khó đạt như 20 ngàn Tiến sĩ, 4-5 trường đạt đẳng cấp quốc tế. Rồi công tác kiểm định chất lượng giáo dục, hiện nay vẫn còn đang nằm trong Bộ, chưa biết đến khi nào mới có thể tách ra thành những tổ chức độc lập với Bộ. Mặc dù đến khi tách ra được rồi, cũng vẫn còn câu hỏi là không biết nó sẽ hoạt động ra sao trong tình trạng thiếu thốn mọi thứ – chính sách, nhân sự, năng lực thực hiện, kinh phí – như hiện nay?


Trước tình hình như vậy, với tư duy quản lý không mấy mới mẻ như trên, không hiểu sau 3 năm thực hiện – một thời gian rất ngắn – thì Bộ Giáo dục sẽ đạt được mục tiêu đổi mới đến đâu? Một câu hỏi thực sự rất khó trả lời.


Cần học tập kinh nghiệm thế giới

Có lẽ cần thẳng thắn nhìn nhận rằng các giải pháp quen thuộc sẵn có và đang được thực hiện trong chương trình hành động – những kế hoạch và những cam kết không có cơ sở và vì thế sẽ không thể thực hiện được – không còn phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển giáo dục đại học ngày nay. Có lẽ để đổi mới thành công, cần học tập từ mô hình đại học đã được toàn thế giới thừa nhận là thành công: mô hình đại học Anh-Mỹ (Anglo-Saxon).

Không chỉ có Việt Nam cần học tập mô hình thành công này. Nhìn ra bên ngoài, sẽ thấy ngay là giáo dục đại học của nhiều nước khác cũng đang thực hiện cải cách theo mô hình đó. Cả những nơi có nền giáo dục đại học với những thành tựu đỉnh cao trong quá khứ như Châu Âu, lẫn những quốc gia Đông Á với nền văn hóa rất khác biệt với văn hóa Anglo-Saxon như Nhật, Hàn, và gần đây là Trung Quốc. Tất cả những quốc gia cải cách giáo dục đại học thành công đều là những quốc gia biết tuân theo những bí quyết thành công của giáo dục đại học Mỹ. Bí quyết đó, xin tạm gọi là bí quyết “3 nguyên lý, 2 cơ chế”, với 5 yếu tố cụ thể như sau:

BA NGUYÊN LÝ ĐỂ VẬN HÀNH THÀNH CÔNG NỀN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
- Tự do học thuật (academic freedom) của giảng viên
- Tự chủ (autonomy) của trường đại học
- Yêu cầu về trách nhiệm giải trình (accountability) của xã hội đối với nhà trường


HAI CƠ CHẾ KIỂM SOÁT CỦA XÃ HỘI ĐỐI VỚI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
- Chính sách và sự chế tài của nhà nước
- Thị trường cạnh tranh tự do, bảo đảm quyền lựa chọn của người học và nhà tuyển dụng


Vận dụng thành công bí quyết “3 nguyên lý, 2 cơ chế” trên vào bối cảnh cụ thể của từng quốc gia sẽ còn đòi hỏi ở toàn ngành giáo dục rất nhiều trí tuệ, quyết tâm, nỗ lực, nguồn lực – không loại trừ, và quan trọng nhất, là nguồn lực thời gian, cùng sự góp sức, hỗ trợ và ủng hộ của toàn xã hội. Nhưng nếu chúng ta né tránh không áp dụng bất kỳ yếu tố nào trong 5 yếu tố của bí quyết trên, thì chắc chắn sẽ rất khó để thành công.

Những khái niệm như “tự do học thuật”, “tự chủ đại học”, hoặc “thị trường cạnh tranh tự do” là những điều hết sức quen thuộc đối với tất cả những ai hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp trong lãnh vực giáo dục trên toàn thế giới. Không chỉ nằm trên giấy hoặc chỉ tồn tại trong các cuộc tranh luận, chúng đã thực sự đi vào cuộc sống hàng ngày của giáo dục đại học các nước, thông qua những chính sách, quy định, quy trình, và hành động cụ thể. Như biên chế suốt đời để bảo đảm tự do học thuật cho giảng viên. Như xếp hạng đại học của các cơ quan truyền thông để cung cấp thông tin nhằm bảo đảm quyền lựa chọn của người học. Như quyền tự chủ của các đại học trong việc đưa ra các tiêu chuẩn tuyển chọn giảng viên, xây dựng chương trình đào tạo, cấp bằng, định mức lương cho giảng viên, mức học phí của sinh viên để bảo đảm tính năng động và hiệu quả cao trong việc đáp ứng thị trường.

Tất cả những điều trên được thực hiện một cách tự động, trôi chảy, mà hầu như không cần có sự can thiệp của nhà nước như thường thấy ở Việt Nam với các chủ trương, chỉ thị, hay chương trình hành động. Mà thay vào đó là vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp trong việc xác định các tiêu chuẩn về năng lực cho những người mới vào nghề, việc tự nguyện tham gia kiểm định của các trường thông qua các tổ chức kiểm định để chứng tỏ trách nhiệm giải trình đối với xã hội. Hoặc vai trò của truyền thông, báo chí trong việc cung cấp mọi thông tin minh bạch đến người tiêu dùng giáo dục, nhằm đảm bảo quyền tự do lựa chọn và cạnh tranh lành mạnh trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục.

Bản danh sách nêu trên còn có thể kéo dài thêm nhiều nữa, nhưng cũng sẽ chỉ xoay quanh 5 yếu tố đã nêu. Trước hết, đó là sự vận hành của toàn bộ hệ thống theo 3 nguyên lý căn bản, hoặc có thể gọi là triết lý của giáo dục đại học: Tự do học thuật, tự chủ đại học, trách nhiệm giải trình. Và sau đó là điều kiện để giáo dục đại học có thể hoạt động hiệu quả và đúng hướng, với 2 cơ chế kiểm soát của nhà nước và thị trường. Trong đó, nhà nước kiểm soát các trường thông qua các chính sách và các biện pháp chế tài (chứ không phải điều hành vi mô trên từng hoạt động cụ thể), và thị trường kiểm soát các trường thông qua quyền lựa chọn sử dụng hoặc không sử dụng dịch vụ giáo dục mà các trường cung cấp của những người tiêu dùng giáo dục.

Khi nhìn vào chương trình hành động mà Bộ Giáo dục đang ráo riết triển khai, các yếu tố tạo nên thành công của một nền giáo dục đại học tiên tiến vẫn hoàn toàn vắng bóng. Thậm chí cả ý niệm đúng đắn về chúng cũng chưa hề tồn tại trong các cuộc tranh luận. Nếu Việt Nam có một nền giáo dục đại học chưa thành công nhưng không chịu học hỏi từ thành công của những quốc gia đã có bề dày kinh nghiệm, thì không hiểu Bộ Giáo dục sẽ đạt được mục tiêu đổi mới quản lý bằng cách nào đây?
Đọc thêm!

Học sinh cá biệt nhìn từ góc độ của …

Phạm Toàn



Học sinh cá biệt - Ảnh minh hoạ:
anninhthudo.vn


Chẳng riêng một nơi nào, bây giờ đây, sắp mất hết bò rồi khắp nơi mới ồn lên lo chuyện học sinh cá biệt.


Trong trí nhớ của tôi, nhiều năm xưa vào dịp Ngày Nhà giáo 20-11, báo chí thường đăng những bài rất mùi mẫn xoay quanh học sinh cá biệt thành đạt trở lại thăm thày cô. Bao giờ bài báo cũng đi theo công thức rất dễ viết: khúc một, cô có nhận ra em không? Khúc hai, cô còn nhớ những trò cá biệt em gây đau khổ cho cô và cha mẹ em không? Khúc ba, cô rơm rớm nước mắt nhận quà, trò cười hồn nhiên ôm vai cô lắc lắc…



Bây giờ tình hình học sinh cá biệt chẳng con thơ mộng như xưa nữa rồi. Bây giờ mà không xử lý xong vụ này thì toi đời cả nước! Trong lúc mọi nơi mọi lúc mọi người – theo lối đồng phục – đang đồng thanh lên án rồi đồng lòng quyết nghị là phải đồng loạt ra quân giao nhiệm vụ cho từng học sinh, cho từng thày giáo và cô giáo, cho từng bậc mẹ cha… rồi cho từng nhà trường, cho từng đồng chí dân phòng nữa cũng nên… phải chịu trách nhiệm… thì cá biệt người viết bài này xin chỉ nói một điều… sẽ nằm ở đoạn kết bài viết.


Trước hết, có ai hoặc có những ai nhìn thấy học sinh cá biệt? Trả lời câu này rất dễ. Học sinh cá biệt thường bỏ giờ học, bỏ bài học, bỏ buổi học… Bỏ học thì phải bù hoạt động gì đó vào cái giờ trống trong khi thày cô và bè bạn đang lao động học tập. Vậy là sinh ra “việc” đi chơi lang thang. Đi chơi mỏi chân và khát nước thì phải tạt vào quán mới đầu chơi ghêm, rồi uống trà đá hoặc uống bia hơi tùy túi tiền, trên đường đi thì phì phèo thuốc lá. Muốn chơi thì phải có tiền: học sinh cá biệt bắt nạt bạn để moi tiền của mẹ cha đem tới “cúng”. Không đủ tiền cung cấp cho học sinh cá biệt một cách “nửa lương thiện” như thế, bắt đầu phải nghĩ chuyện đào tường khoét vách móc túi lừa đảo và cướp giật. Kịch bản đến thế đã là tột cùng rồi chứ gì? Hay là còn phải thêm tí án mạng nữa cho thêm gay cấn?

Nhưng có hai câu hỏi phụ cho câu hỏi chính vừa nêu trên – xin bà con ta lưu ý đừng tưởng “phụ” mà kém phần quan trọng!

Câu hỏi phụ thứ nhất: mọi người nhìn vào một em học sinh cá biệt thì đã định dạng được “hắn” rồi – song chính em học sinh cá biệt đó tự định dạng mình ra sao? Đã có bao nhiêu người lớn quan tâm đến điều đó? Đang học mà bỏ học, vậy thì “ta” là cái kiểu người gì đây? Ta bắt nạt các em nhỏ, có khi chỉ bắt nạt chơi, có khi vì tiền bạc, nhưng vì sao tên kẻ cướp ấy lại không thấy hành vi xấu xa đó là xấu xa? Lại nữa, có tiền trong túi, ra mua rượu và thuốc lá, người lớn vẫn bán chứ không cấm, vậy nó nghĩ gì khi đó? Lũ trẻ đó, từng đứa một, nhìn hành vi “đập phá” của mình bằng con mắt gì, chúng có thẹn không, chúng có sợ không, chúng có khi nào đau lòng không?

Các nhà tâm lý học mải dùng trụ sở bao cấp đem cho thuê dạy ngoại ngữ rồi khi rảnh rang thì nói chuyện trời đất cao xa, xã hội chẳng thấy một vị nào thống kê xem những học sinh cá biệt nghĩ gì về bản thân chúng. Muốn chữa cho chúng, không thể chỉ chữa cách chúng nhìn xã hội – phải chữa vào chỗ hiểm nhất là cách chúng tự đánh giá bản thân. Vì trong cách tự đánh giá bản thân chúng sẽ hàm chứa những ẩn ức của chúng với người lớn, với các thiết chế của xã hội, với cái không gian như trong tấm lưới chúng hình dung sẽ sống khi tròn mười tám tuổi cho tới ít nhất là tám mươi tuổi. Ở Liên Xô cũ, có một thực nghiệm tưởng như đùa: cho học sinh đóng vai giáo viên. Thế mà qua đó người ta “thanh tra” được vô khối chuyện liên quan đến nghề nhà giáo và rộng ra hơn là đến nguyên lý chi phối toàn bộ cái xã hội mọi người đang chung sống. Các nhà tâm lý học Việt Nam hãy thử lặp lại thí nghiệm đó đi, và sẽ thấy công việc này vui hơn là chuẩn bị những công viên đầu rùa và mai rùa để ghi tên các học giả thời hiện đại.

Và còn có câu hỏi phụ thứ hai cũng không kém phần quan trọng: có ai hoặc có những ai nhìn thấy từng em và tất cả các em học sinh cá biệt đã trở thành cá biệt như thế nào? Nhân chi sơ tính bản thiện. Không có nhẽ các em học sinh bé nhỏ đã phải trả món nợ tiền kiếp và nhất định phải trở thành “cá biệt”? Những cái hạt tinh khôi và những cái mầm non tơ tính bản thiện hà cớ gì trong tiến trình mười hai năm học “trong vòng tay yêu thương của xã hội” lại dứt khoát từ chối những cái hay cái đẹp, để rồi cứ trở thành “cá biệt”? Trong tiếng Pháp tuyệt nhiên không có thuật ngữ “học sinh cá biệt”, mà chỉ có “enfant difficile” – những trẻ em “có vấn đề”, trẻ em khó học khó dạy, chứ không là những trẻ em cá biệt theo định mệnh!

Cấn nhận thấy là cho tới nay, nền giáo dục nào cũng chậm hơn (“lạc hậu”) so với cuộc sống thực chuyển động ầm ầm như vũ bão. Lạc hậu ít thì trẻ em được nhờ, lạc hậu nhiều thì thành hệ thống ngu dân. Không thể tránh không có học sinh cá biệt. Điều quan trọng là nhà giáo dục cần nhận ra được sự hình thành các kiểu loại học sinh cá biệt do chính mình tạo ra trong một nền giáo dục không hoàn thành nhiệm vụ.

Ít nhất có thể chia các nhân vật đầy tranh cãi đó ra làm ba dạng. Ở một cực này, có một dạng “cá biệt vĩ đại”: trong nền giáo dục đầy tính thần quyền, ông Darwin chắc chắn là học sinh cá biệt, vì ông không tin rằng Chúa đã nặn nên con người. Ở một cực kia, có một dạng “cá biệt Chí Phèo”, vừa là nạn nhân vừa là tội nhân, tự hủy hoại đời mình, số lượng lúc nhiều lúc ít, rất khó cứu chữa. Nguy kịch cho xã hội thực ra lại nằm ở loại giữa: hết sức đông đảo là những trẻ em khước từ một nền giáo dục không phù hợp, nhưng tình nguyện đồng loạt mang đầu óc đồng phục. Ngay từ bé, những em này đã tự bưng tai bịt mắt, đã biết tự nô dịch mình, để vẫn là “cá biệt từng phần” nhưng không bị gán tội danh học sinh cá biệt. Chính cha mẹ những trẻ em này đã từng học lấy cách sống trái với bản tính tự nhiên để ép mình cho hợp với “vòng kim cô yêu thương” của cái nền giáo dục đã tự hủy hoại mình trước khi hủy hoại xã hội. Chính họ góp phần tạo ra những học sinh cá biệt đông đúc đó mà không biết.

Xét trên một khía cạnh nào đó – từ sự phán xét một nền giáo dục bất cập thảm hại – những em “cá biệt” đó quả là đáng thương, vì đó chính là con đẻ của một sự nghiệp giáo dục đã chối bỏ chúng và cũng bị chúng chối bỏ. 

Cần dăm bảy chục năm công phu – chứ không phải là vài ba đợt “ra quân” – cần có sự điều hành của những nhà giáo dục đích thực, dựa trên những giải pháp nghiệp vụ, may ra có hy vọng sửa chữa tình trạng bi đát hôm nay. Đừng chữa ung thư bằng thuốc cảm cúm trong tủ thuốc nhà nghèo hoặc bằng tắm bùn tại các khu ăn chơi sang trọng.

Hà Nội, 7-4-2010
Đọc thêm!