Trang

Thứ Hai, 13 tháng 4, 2015

Trịnh Cường ngữ lục – bài diễn thuyết bị ngắt quãng bởi 127 lần vỗ tay

Ghi chép những phát ngôn nổi tiếng của giáo sư Trịnh Cường (鄭強) – Đại học Chiết Giang (Trung Quốc).

1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi.

2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.

3. Nhật Bản xâm lược nước ta, vì nước ta có rất nhiều Hán gian. Sau này nếu Nhật lại xâm lược, thì chúng ta có Hán gian nữa không ? Ai sau này sẽ là Hán gian của Trung Quốc ? Đại bộ phận mọi người ở đây đều sẽ làm. Vì mọi người cười nhạo những người yêu nước, sùng bái quyền lực và tiền bạc, khinh bỉ lý tưởng và chí khí.

4. Hiện tại ai là Hán gian ? Là sinh viên Thanh Hoa, Bắc Đại ; vì họ dùng kiến thức học được để giúp người ngoại quốc khai thác thị trường nội quốc, đánh bại doanh nghiệp Trung Quốc.

5. Chúng ta coi thường giá trị lịch sử, cho rằng nhà cửa càng mới càng tốt, nhưng các bạn hãy đến các trung tâm thành phố ở Pháp mà xem, gần như không có công trình kiến trúc mới. Họ coi sự tích lũy lịch sử là đáng tự hào, còn chúng ta tự giày vò mình bằng cách không ngừng phá nhà xây nhà.

6. Bản chất của giáo dục không phải là mưu sinh, mà là thức tỉnh hứng thú, cổ vũ tinh thần. Dựa vào giáo dục để mưu sinh và phát triển cũng được, nhưng chúng ta đã coi trọng nó quá mức.

7. Cho dù sau này Trung Quốc phát triển, nhưng các bạn hãy nhìn những triệu phú lái xe đắt tiền, rồi mở cửa xe để nhổ đờm vứt rác. Các bạn sẽ hiểu rằng, nếu không có giáo dục, Trung Quốc giàu có đến mấy cũng không thể lớn mạnh.

8. Đi học là để biết gánh trách nhiệm. Nhưng giáo dục hiện nay làm cho nữ giới phải gánh vác quá nhiều trách nhiệm, còn nam giới thì trốn tránh quá nhiều trách nhiệm.

9. Lịch sử nhân loại thực ra là một loạt những sự bồng bột, nên các bạn đừng coi khinh sự bồng bột, bồng bột là đáng yêu.

10. Bóng rổ Trung Quốc không thiếu kỹ thuật, không thiếu tiền, cái thiếu là tinh thần trách nhiệm, cho dù chỉ là trách nhiệm đối với khách hàng.

11. Người biết hát thì phát âm bằng hơi, nên họ không mệt, khi các bạn nói, tôi thấy thanh quản các bạn rung, nên tôi biết bạn hát không hay.

12. 20 năm nữa, người Trung Quốc sẽ sùng bái tri thức chứ không phải quan chức. Điểm này chúng ta nên học người Nhật Bản, sự tôn trọng tri thức của người Nhật Bản đã lên đến cao độ. Nhưng Trung Quốc ngày nay, người có tiền, người có chút uy quyền – dù chỉ là một ông trưởng phòng, cũng có thể làm cho một giáo sư đánh mất hết lòng tự trọng. Cái trí tuệ có vẻ thông minh ấy, cái đám con buôn giương giương tự đắc ấy, thật nông cạn biết bao.

13. Một người đàn ông, chỉ có thể quỳ trước cha mẹ và bạn đời, chỉ có thể cúi trước người thầy, chứ không thể cúi đầu trước uy quyền và tiền bạc. Nhưng ngày nay đại đa số là ngược lại.

14. Vì sao người Nhật Bản không đi xin lỗi, vì sao tổng thống Nhật Bản không đi tạ tội ? Vì họ biết lòng tự tôn và lịch sử của Nhật Bản là quan trọng nhất, còn sự bất mãn của các nước Á châu là không có chút trọng lượng nào, nên họ không cần phải để ý.

15. Giáo dục nên làm cho người Trung Quốc biết tự trọng. Nhưng ngày nay chúng ta nhìn thấy người ngoại quốc là cúi đầu, con gái nhìn thấy đám con trai vớ vẩn ngoại quốc là đều muốn lấy lòng. Thưa các bạn, trước mặt người ngoại quốc, chúng ta đánh mất hết lòng tự trọng. Trong số những người du học tại Đại học Tokyo, tôi là người duy nhất quay về, nhưng người Nhật Bản lại kính trọng tôi, vì tôi sống có linh hồn, sống có khí phách.



被127次掌声打断的浙江大学教授郑强的经典语录…(转载)
1.日本人宁愿喜欢黑人,也不喜欢我们,因为现在的中国人没有了精神。
2.大家都在嘲笑俄罗斯,但我知道俄罗斯将来一定会发达,因为那里的人2天没吃饭了饿着肚子还排队,而我们有2个人也要挤的不可开交。
3.日本人侵犯我们,因为我们出了很多汉奸。将来日本人侵犯我们,还会不会有汉奸?谁将是未来中国的汉奸?在座的诸位很大一部分都将是。因为你们嘲笑爱国者,崇拜权势和金钱,鄙夷理想和志气。
4.谁现在就是汉奸?北大清华的学生,因为用他们学习的知识帮外国人开拓市场,打败我们中国的企业。
5.我们漠视历史的价值,总以为楼宇越新越好,但你到法国市中心看看,几乎没有什么新建筑,他们以历史积淀为自豪,而我们以不断地拆楼建楼来折腾自己。
6.教育的本职不是谋生,而是唤起兴趣,鼓舞精神。靠教育来谋生和发达也是可以的,却被我们过度重视了。
7.将来中国即使发达了,但你看看那些开着豪华车的富翁们从车窗外向外吐痰、扔垃圾。你就知道,如果没有教育,中国再富裕也不会强大。
8.读书是为了承担责任。但现在的教育让女人承担了太多责任,让男人逃避了太多责任。
9.人类历史,实际就是一连串冲动。所以大家不要鄙视冲动,因为冲动都是可爱地。
10.中国的篮球不缺乏技术,不缺乏金钱,但他们缺乏责任感,哪怕是对消费者的责任感。
11.会唱歌的人用气息发音,所以不累。当我看到你们说话时喉头是动的,我就知道你唱歌肯定不好。
12.未来20年,中国人崇拜的将是知识而不是官员。这一点我们应该向日本学习,这个民族对知识的尊重,无以复加。但现在在中国有点钱的人,有点小权的人–哪怕是个科长,也可以照样把大学教授弄得没有尊严。这种貌似聪明的聪明,洋洋自得的市侩,是多么肤浅啊。
13.一个男人,只可以给自己的父母和妻子下跪,只可以对自己的老师鞠躬,绝对不应当对权贵与金钱低头。但如今,大多数人正好反了。
14.日本人为什么不道歉,日本总统为什么不谢罪?因为他们知道,日本人的尊严和历史最重要,相反其它亚洲的不满太没有分量,所以他们可以置之不理。
15.教育应该让中国懂得自尊。但是现在我们看到外国人就低头,女生看到外国垃圾一般的男人都想讨好。同志们,在外国人面前我们多么地没有尊严。在留学的日本东京大学的人当中,我是唯一回来的,但日本人反而敬重我,因为我活得有灵魂,活得有骨气。
节选:
“在中国这个发展中国家,你能建10所世界一流大学,那美国有多少所?日本有多少所?现在的实际状况是:世界上前200所大学,中国一所都排不进!在亚洲能排出几所?我到国外去看了以后,感到要将浙大建成世界一流大学就像共产主义理想”。
“以前说‘无知无畏’,现在却是‘无知才无畏’。许多企业把浙江省技术监督局、科委的人请来吃一顿饭,喝一点酒,他就给你签个字,再把我们这些教授胁迫到那里去,给你盖个章,然后就是‘填补国内外空白’、‘国际先进水平’。写论文则是‘国际领先水平的研究成果’、‘首次科学发现’等等。这都是目前非常严重的问题!作为一个大学教授,我深深地为此担忧!这不是我们的责任,是我们的领导无知,是他们倡导了这个主流。我知道在座的处长或老总日子很难过,因为你们不写这样的报表,就拿不到钱,项目就得不到批准,教授也同样如此,天天写报告,而不是在实验室静下心来好好搞研究,这是很严重的!”。
“我们国家的现实和发展就是这样:凡是依赖不成的,我们自己都能搞得像模像样,比如二弹一星、凡是能够引进的,就都搞不成…….现在很多合资企业就这样,卖点东西,而没有去考虑这些深层次的东西。殊不知,这就是社会的恶性循环!”。
“我认为:语言、计算机就是工具。中国的外语教授讲英语还不如美国卖菜的农民!怎么看待这个问题?日本博士、德国教授说不出英语的多得是!我们怎么能说一个人不会说英语就是文盲呢?语言就是一个工具!你没有那个环境,他怎么能讲这个语言呢?……如果我是教育部长,我要改革二件事:
第一,取消六级考试。你一个研究生连中文一级都不及格,你英文考六级干什么呢?看看研究生写得论文,自己的民族文化都没有学好,天天考英语──打勾:托福打勾、GRE打勾、英文考出很高的分。可哪个写的英文论文在我面前过得了关呢?过不了关!这样培养出来的人能干什么?自己搞的专业一点都没学好!……说不会计算机就是文盲,这又是一个误区!我现在是教授,我顾不上搞计算机!”。
“你看我,从高中开始学英语,大学学,硕士学,博士学,花了我多少精力!你说中国人怎么做得出高科技的研究成果?我这几天就教训我手下的几位女学生,问她们在干什么,看不到人影,一天到晚考这样、考那样的,到美国去干什么?在国内要干的事多着呢!你整天考英语,美国人连报个名都要收你们的钱,日本人也是如此,中国学生到日本去要交手续费,到日本留学是为日本人打工,好不容易挣点钱交了学费,读完博士在日本的公司就职当劳动力,挣了一笔钱后要回国了就买了家电,把钱全给了日本人。你们都没有注意这件事,这里面都是经济问题。这就是素质教育到底是什么”。
“中小学的教育就是听话,老师管干部,干部管同学,孩子们都学会了成年化的处世方式。这是害人啊!这样强迫性地做了一些好事后,没有把做好事与做人准则结合起来去培养,而只学会了拍马屁、讨老师喜欢、说成人话。上次电视上就曾经播出,一个小孩得了个奖,主诗人问他最愿意说什么,他说:“我最愿意跟江爷爷说:我向你报告!““江爷爷”是谁?还不是老师教的!孩子们在中小学活得很累,到了大学就没人管了,所以就要玩、就要谈恋爱”。
“我们有很多同学成绩好,却什么都做不了。在我们大学像我这种程度的人,招博士生是从来不看成绩的,成绩算什么!现在我从事的这个领域在中国有叁个杰出的人才,当初在读研究生时都补考过,而成绩考得好的几个人却都跑到美国去卖中药了。这说明了什么问题?作老板的可不能这样啊!……人才的梯队一定要合理,而不要认为教授就是万能的、博士就是万能的。中国的教育体系就是让每一个老百姓都充满希望和理想,教育孩子们要树立远大的理想。实际上,人的能力是不一样的。扫地能扫好,也应该受到尊重;打扫厕所能打扫干净,也应该受到尊重,不能动不动就要高学历。我要提醒的是:在国外可不是这样。美国、日本的博士就很难找到工作,为什么?因为老板心疼钱,招了博士要给他高工资,而他能做什么用呢?这是个具体问题”。
“科技到底该干什么?高科技到底该干什么?如果我是科技部长,该玩的就玩,就像陈景润,他就是玩!陈景润如果是处在今天的中国,他绝对是要去讨饭的,因为他不会去搞产业化,他的英语也不好,他说话都不流利,中文都讲不好,按现在“标准“,他是个文盲,还谈什么教授!日本人就是喜欢美国人,我跟日本人说:你们这个民族爱谁,谁就要向你们扔原子弹。日本人就是喜欢黑人也不喜欢中国人…….我特别对我们的女教授、女同学说:在日本人面前一句日文都不要讲,会也不要讲;日本人一听说你讲英文,特别是看到中国女孩讲英文,腿都要发软,这是真的!”。
“中国人为什么这些年都往外跑,最重要的是要让国民自己爱自己国家…….如果我是杭州的市长,我绝对不是狭隘的民族自尊心──如果杭州有什么灾难,我就首先把杭州的老百姓安排在香格里拉,让外国人在外面排队!(掌声!)这样,你才会让你的国民爱自己的国家!一个日本的农民跑到峨嵋山去玩,骨头摔断了,你就用中国空军的直升飞机去救他,而在日本大学一名中国留学生在宿舍里死了7天才被发现;名古屋大学的一对中国博士夫妇和孩子误食有毒磨菇,孩子和母亲死了,父亲则是重症肝炎,在名古屋大学医学院的门诊室等了12个小时,也没有一个日本教授来看望!而你们为什么还要这么友好,以为自己很大度,实际上是被人家耻笑,笑你的无知!你们这个民族*!我们不能这样!我们的领导人跑到国外去访问,看到有几个人在欢迎他们,就感到挺有面子;而外国来了个什么人物,都是警车开道,这究竟是怎么回事?这让我们中国人感到是自豪还是悲哀?所有这些,对教育工作来讲,都是深层次的问题。所以我经常讲,我作为一位自然科学工作者,我教育我的学生,首先是学会做人。没有这些,你学了高分子,外语都是花架子”。
(theo : Bạch Ngọc Sách)
Đọc thêm!

Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Sự độc lập của thẩm phán Tòa án tối cao LB Mỹ


Mặc dù Tổng thống và Thượng viện cố gắng lựa chọn những người có cùng quan điểm với mình vào vị trí thẩm phán Tòa án Tối cao, nhưng trên thực tế, các thẩm phán Tòa án Tối cao đều thể hiện sự độc lập của họ đối với chính phủ và nghị viện như khi được bổ nhiệm họ đã trân trọng xin thề. 

Xét trên góc độ phân quyền thì Hiến pháp Mỹ là một trong những bản Hiến pháp thể hiện rõ nét nhất. Lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập và chế ước lẫn nhau.

Đầu tiên, sự độc lập được thể hiện trong quy trình xây dựng bộ máy của các nhánh quyền lực. Chẳng hạn, ở hai nhánh lập pháp và hành pháp, các nghị sỹ (thành viên của nghị viện - Thượng viện và Hạ viện) và Tổng thống (người đứng đầu nhánh hành pháp - chính phủ) được chọn lựa từ các cuộc bầu cử riêng biệt. Còn đối với nhánh tư pháp (tòa án), các nhà lập hiến khởi thủy nước Mỹ đã không dùng phương thức bầu cử để lựa chọn ra các thẩm phán, có lẽ nhằm tạo ra một nhánh quyền lực hoàn toàn độc lập - độc lập ngay cả đối với dư luận, áp lực chính trị, giúp các thẩm phán trở thành những trọng tài nhân danh công lý, lẽ công bằng để phán xử các tranh chấp.

Hiến pháp Mỹ (Điều II, Mục 2) trao quyền bổ nhiệm thẩm phán cho Tổng thống nhưng theo sự khuyến cáo và sự chấp nhận của Thượng viện. Điều này thể hiện sự chế ước của nhánh lập pháp đối với hành pháp trong việc bổ nhiệm thành viên của nhánh tư pháp. Liệu việc trao quyền bổ nhiệm thẩm phán Tòa án Tối cao cho Tổng thống và Thượng viện có làm mất đi tính độc lập của thẩm phán?
Tuy Tổng thống và Thượng viện cố gắng lựa chọn những người có cùng quan điểm với mình, nhưng trên thực tế, các thẩm phán Tòa án Ttối cao khi được bổ nhiệm đã trân trọng xin thề giữ vị thế độc lập đối với chính phủ và nghị viện. Nhờ vậy, các thẩm phán đã giành được sự tôn kính của người dân, cũng như mang lại uy tín, thẩm quyền to lớn cho Tòa án Tối cao trong chính trị và pháp luật nước Mỹ.

Hiến pháp cũng góp phần quan trọng không kém nhằm bảo đảm vị thế độc lập của thẩm phán, theo đó, “các thẩm phán Tòa án Liên bang sẽ có nhiệm kỳ suốt đời nếu làm việc tốt và đảm bảo rằng tiền lương của họ sẽ không bị cắt giảm trong suốt thời gian tại vị” (Điều III, Hiến pháp Mỹ).

Tiêu chuẩn để bổ nhiệm thẩm phán

Hiến pháp trao quyền bổ nhiệm thẩm phán Tòa án Tối cao cho Tổng thống và Thượng viện mà không quy định bất kỳ điều kiện, tiêu chuẩn cụ thể nào đối với thẩm phán. Tuy nhiên, trên thực tế, thông thường thẩm phán được bổ nhiệm từ các luật sư, hoặc từ các thẩm phán ở các tòa án cấp thấp hơn. Có thể hiểu rằng, trọng trách của thẩm phán là giải thích và áp dụng pháp luật do đó họ phải được đào tạo về luật và có năng lực, kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật. Ngoài ra, nhờ sự để ngỏ của Hiến pháp mà các thượng nghị sỹ được tự do đưa ra các tiêu chuẩn để bỏ phiếu, như quan điểm chính trị (đảng phái), nhân thân và trình độ tư pháp.

Số lượng thẩm phán tòa án tối cao

Số lượng thẩm phán Tòa án Tối cao không được quy định trong Hiến pháp, mà do nghị viện quy định trong đạo luật của liên bang. Ngay sau khi Hiến pháp Mỹ ra đời vào năm 1789, Tòa án Tối cao được thành lập theo Luật Tư pháp cùng năm, với số lượng thẩm phán gồm sáu người (một chánh án và năm thẩm phán). Tuy nhiên, từ năm 1801 đến năm 1863, số lượng thẩm phán thay đổi một vài lần, từ năm đến mười người. Vào năm 1866, số lượng thẩm phán là chín người (một chánh án và tám thẩm phán) và con số này cố định từ đó đến nay. Chánh án điều hành Tòa án Tối cao nhưng khi biểu quyết thì chỉ có một phiếu như các thẩm phán khác.

Vượt qua sức ép chính trị

Tòa án Tối cao Mỹ được trao quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật do nghị viện ban hành, các hành vi, chương trình của Tổng thống... Thách thức để thẩm phán vượt qua sức ép chính trị từ người đã bổ nhiệm họ không phải là nhỏ. Tuy nhiên, trên thực tế, một khi thẩm phán được bổ nhiệm, họ luôn tỏ rõ sự độc lập của mình, chỉ ra quyết định dưới màu sắc công lý. Có thể kể ra một số ví dụ: Khi Tòa án Tối cao Mỹ xem xét tính hợp hiến của hành động tịch thu các nhà máy thép lớn ở Mỹ của Tổng thống Harry S. Truman, hai trong số bốn thẩm phán do Tổng thống Truman bổ nhiệm đã bỏ phiếu chống. Hay trong vụ án nước Mỹ kiện Tổng thống Nixon sau khi ông từ chối trao các cuốn băng của Nhà Trắng theo lệnh của tòa án và viện dẫn đó là đặc quyền của Tổng thống, ba trong số bốn thẩm phán do Nixon bổ nhiệm đã bỏ phiếu chống lại ông.

Một thí dụ khác, sau khi Tổng thống Roosevelt tái đắc cử, ông đưa ra kế hoạch trình nghị viện bổ nhiệm tối đa, một lúc thêm sáu thẩm phán, nhằm khống chế Tòa án Tối cao, cũng như để “trả đũa” việc Tòa án Tối cao đã tuyên bố vi hiến một số đạo luật trong chính sách Kinh tế mới (New Deal) của ông ở nhiệm kỳ trước. Mặc dù cả Thượng và Hạ viện Mỹ đều ủng hộ chính sách kinh tế mới của Tổng thống Roosevelt nhưng các nghị sỹ, trong đó có một số người cùng đảng với Tổng thống, đã bác kế hoạch bổ nhiệm này vì họ cho rằng sự độc lập của cơ quan tư pháp quan trọng hơn những bất đồng về chính sách. Có thể nói, nghị viện đã thể hiện tốt vai trò ngăn chặn sự thâu tóm của Tổng thống Roosevelt đối với nhánh tư pháp, không để các quan tòa phụ thuộc hay chịu các áp lực chính trị từ người đứng đầu nhánh hành pháp.

Mới đây, ngày 9/8/2014 tại TP Ferguson, Missouri, thanh niên da màu Michael Brown đã bị cảnh sát da trắng Darren Wilson bắn chết. Vụ việc làm dấy lên làn sóng biểu tình của người da màu suốt thời gian qua, đặc biệt sau ngày 24/11/2014, khi công tố viên hạt St. Louis tuyên bố rằng bồi thẩm đoàn quyết định không buộc tội Wilson.

Mặc dù Hiến pháp Mỹ trao toàn quyền tư pháp cho tòa án, nhưng các thẩm phán cũng phải tuân theo các quy trình tố tụng theo luật định. Trong các vụ án hình sự, bồi thẩm đoàn được trao quyền quyết định buộc tội hay không buộc tội, trong khi các thẩm phán được trao quyền áp dụng các quy định của pháp luật vào vụ án.

Chính vì vậy, khi bồi thẩm đoàn quyết định không buộc tội Wilson, thẩm phán không thể làm khác đi. Liên quan đến vụ án, thẩm phán Tòa án Liên bang chỉ ban trát về việc cảnh sát TP Ferguson vi phạm Hiến pháp vì đã đưa ra lệnh cấm “đứng yên” và cấm quay phim chụp ảnh khi biểu tình.

Có lẽ với vai trò “gác cổng” Hiến pháp, thẩm phán liên bang đã bảo đảm được rằng, nếu vụ án chưa được tiến hành một cách công bằng bởi các nhân viên công quyền thì người dân có quyền lên tiếng, bằng quyền tự do biểu đạt cảm xúc (quyền biểu tình), và thông qua báo chí để giám sát hành vi của các nhân viên công quyền. Điều đó cũng thể hiện, quan tòa liên bang đang nhân danh công lý bảo vệ thế yếu trong phạm vi quyền hạn cho phép bởi Hiến pháp. 

Trần Đức Tuấn
19/12/2014 - Tạp chí Tia Sáng - tiasang.com.vn 
Đọc thêm!

Pháp luật bảo vệ đạo đức và các giá trị cộng đồng


Pháp luật định ra các chuẩn mực tối thiểu để yêu cầu các thành viên trong cộng đồng phải tuân thủ. Nếu vi phạm, các chế tài thường được áp dụng. Trong khi đó, đạo đức thường được đưa ra với tiêu chuẩn cao hơn pháp luật, và đối với từng chủ thể thì chuẩn mực đạo đức lại đặt ra khác nhau. Do vậy luật pháp cần có các quy định mở, linh hoạt để dễ dàng vận dụng vào thực tiễn.

Pháp luật được sinh ra với mục đích bảo vệ các giá trị về đạo đức và chuẩn mực của cộng đồng. Nếu không có pháp luật bảo vệ hoặc pháp luật không đủ sức mạnh để bảo vệ, các giá trị đạo đức sẽ bị xói mòn. Trong quốc gia có nền pháp lý tiên tiến, pháp luật sẽ được phân loại và bảo vệ được các giá trị đạo đức đối với từng đối tượng. Chẳng hạn như, đối với bác sỹ, luật sư, thẩm phán... nếu vi phạm các quy định về nghề nghiệp, họ sẽ bị trừng phạt bằng pháp luật với những chế tài khắt khe hơn so với người bệnh, thân chủ hay đương sự... Và trong một xã hội hoàn hảo, các quy định của pháp luật sẽ trùng với các quy tắc đạo đức, chuẩn mực của xã hội. Khi đó, các quy tắc đạo đức được luật hóa bằng các quy định cụ thể và có hiệu quả thực thi trên thực tế.


Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, luật pháp giúp hình thành nên các hành xử chuẩn mực cho cộng đồng, từ từ tạo ra các quy tắc đạo đức được xã hội thừa nhận nếu các quy định của luật pháp là hợp tình, hợp lẽ. Nếu pháp luật không hợp lý, điều này có thể xung đột và làm hại tới các giá trị của đạo đức, và cũng có thể đẩy cả cộng đồng đến với những thói quen xấu bởi việc chấp hành các quy định pháp luật đó.

Hiện nay, tại nhiều quốc gia vẫn đang áp dụng mô hình dựa vào ý chí của số đông và bảo vệ các giá trị mà số đông đó định ra để thông qua luật, mà chưa có cơ chế để bảo vệ lợi ích cho thiểu số, thế yếu, hay đi xa hơn đó là sự công bằng, bình đẳng giữa những con người với nhau trong giá trị đạo đức. Theo quy trình này, luật pháp được ban hành bởi đa số tán thành ở Quốc hội (Nghị viện), cơ quan lập pháp gồm các dân biểu đại diện cho ý chí đa số người dân. Sau đó, luật pháp có hiệu lực.

Một số quốc gia, đặc biệt là Mỹ, đã áp dụng mô hình kiềm chế và kiểm soát quyền lực nhằm hạn chế sức mạnh số đông của Nghị viện và bảo vệ lợi ích của thế yếu, thông qua việc trao quyền cho Tổng thống (người đứng đầu nhánh hành pháp) quyền phủ quyết luật, hay trao cho Tòa án quyền bảo vệ các giá trị căn bản (các giá trị đạo đức được ghi nhận) được quy định trong Hiến pháp (vai trò bảo Hiến). Từ đó, giả sử có một đạo luật được thông qua bởi Nghị viện yêu cầu trục xuất toàn bộ người da màu ra khỏi nước Mỹ, thì bất kỳ một người nào cũng có thể viện dẫn Hiến pháp để đệ đơn lên Tòa án tối cao yêu cầu tuyên đạo luật đó vi Hiến. Những cơ chế như vậy giúp người dân mạnh dạn đứng ra bảo vệ sự công bằng, lẽ phải hay các giá trị đạo đức, chuẩn mực cho cộng đồng.

Ở nước ta, liệu rằng một người tàn tật ngồi xe lăn hay một người nào đó có thể khởi kiện, yêu cầu làm đèn tín hiệu giao thông, thay vì các cầu đi bộ dành cho người đi bộ hay không, khi họ viện dẫn nguyên tắc mọi công dân đều có quyền bình đẳng theo quy định của Hiến pháp?

Một trong những nguyên nhân dẫn đến đạo đức của người Việt hiện nay đang xuống cấp là luật pháp chưa đóng vai trò hiệu quả trong việc bảo vệ các giá trị đạo đức.

Có thể viện dẫn một số ví dụ như: Căn cứ Nghị định 167/2013, chỉ áp dụng chế tài hành chính là phạt tiền đối với người có hành vi bạo lực gia đình. Đặc biệt, việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng như đối với người khác (thương tích 11%). Trên thực tế, chế tài này tỏ ra bất lực, bạo lực gia đình vẫn xảy ra thường xuyên. Thiết nghĩ, việc bổ sung các biện pháp khác như “lao động công ích” hay “hình sự hóa” một số hành vi trái đạo đức, luân lý trong mối quan hệ gia đình là cần thiết.

Hay một ví dụ khác, người thầy nhận phong bì của một sinh viên, đổi lại, sinh viên sẽ được cho điểm cao. Khi bị phát hiện, người thầy ấy sẽ bị kiểm điểm hoặc kỷ luật. Nhưng nếu vụ việc này xảy ra ở một số nước khác, người thầy ấy sẽ bị truy tố và có thể ngồi tù một vài năm bởi mối quan hệ đạo lý thầy trò là đặc biệt và cần được bảo vệ bằng những hình phạt đủ tính răn đe. Ở nhiều nước, chế tài hình sự cũng được áp dụng đối với các mối quan hệ như bác sỹ và bệnh nhân, luật sư và thân chủ,...

Có thể nói, trong phần lớn các trường hợp khi các giá trị đạo đức bị xâm phạm thì chưa có chế tài mang tính pháp lý thích đáng để xử lý, răn đe, cũng như thông qua đó để giáo dục người xâm phạm. Chính vì vậy, nên chăng cần ban hành các bộ quy tắc về chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực hành xử đối với một số nghề nghiệp, chẳng hạn như đối với luật sư, bác sỹ, thương nhân... Và điều quan trọng là một khi vi phạm những đòi hỏi chuẩn mực này, họ sẽ bị xử lý bằng các chế tài hành chính, hình sự một cách thích đáng. Những khẩu hiệu như “lương y như từ mẫu” , “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” không có chế tài thì dần dần cũng bị lãng quên.

Ở phạm vi rộng hơn, đối với người dân nói chung, luật pháp cần có các quy định mở, linh hoạt để dễ dàng vận dụng vào thực tiễn bởi không thể liệt kê được tất cả các quy tắc về chuẩn mực đạo đức của xã hội muôn hình vạn dạng vào trong các điều luật. Và để áp dụng có hiệu quả, các cơ quan công quyền, đặc biệt là các quan tòa, cần công tâm giải thích các quy định đó để đưa vào từng trường hợp cụ thể, từ đó bảo vệ các giá trị đạo đức, các chuẩn mực của cộng đồng.

Trần Đức Tuấn
23/01/2015 - Tạp chí Tia Sáng - tiasang.com.vn 
Đọc thêm!

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

Tự do ngôn luận và ý thức trách nhiệm công dân

Pierre Darriulat

Theo tôi, nhìn chung việc người dân lên tiếng phê phán những tiêu cực không phải là đang chống lại chính quyền, mà ngược lại, đó chính là thực hiện quyền và trách nhiệm chính đáng của người dân – như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, dân chủ chính là làm sao để người dân mở miệng – mặt khác qua đó giúp chính quyền khắc phục, sửa chữa những sai sót của mình.


Vì vậy, các chính phủ đều cần lắng nghe những tiếng nói phê phán của người dân. Đặc biệt với thế hệ trẻ, cần khuyến khích họ tự do phát biểu, bởi đó cũng là cách thúc đẩy và phát triển ý thức trách nhiệm của họ với tương lai của đất nước, khiến họ biết lo lắng về những lợi ích chung của cộng đồng hơn lợi ích riêng. Chúng ta cần đối xử với giới trẻ như những người trưởng thành có trách nhiệm; khuyến khích họ phát biểu một cách tự do miễn là họ làm điều đó với tinh thần tích cực và xây dựng. Thậm chí trong một xã hội tiến bộ, người ta phải khoan dung và độ lượng với giới trẻ nếu, đôi lúc, vì nhiệt huyết quá mức của tuổi trẻ mà họ có những tuyên bố không có đầy đủ căn cứ.

Nếu không khuyến khích tinh thần phê phán có trách nhiệm ở giới trẻ, chúng ta sẽ tạo ra một thế hệ những người chỉ biết vâng lời một cách thụ động. Có thể ai đó cho rằng làm như vậy là bảo vệ họ khỏi vấp vào những sai lầm trong nhận thức, nhưng thực ra chúng ta đang thất bại trong việc trang bị cho họ bản lĩnh cần thiết để đối mặt với tương lai khó khăn, thất bại trong việc đào tạo họ biết phản ứng, nói “không” khi phải nói không và biết tức giận khi cần phải tức giận.

Việc giáo dục tinh thần phê phán lành mạnh luôn đòi hỏi cách tiếp cận đa chiều một cách khoa học trong mọi vấn đề, kể cả những lĩnh vực được coi là nhạy cảm về chính trị bởi chỉ có như vậy mới giúp xây dựng, phát triển, củng cố những tri thức và lý tưởng đích thực. Ví dụ khi giảng dạy về chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta cần cung cấp đầy đủ những thông tin đa chiều cần thiết để giới trẻ có thể đánh giá khách quan những thành công và thất bại của các hình thái xã hội khác nhau: chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa tự do. Sẽ rất lý thú và hữu dụng nếu chúng ta dạy chủ nghĩa Mác-Lênin một cách nghiêm túc, về những năm tháng ban đầu của quan điểm chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản vào thời kỳ cách mạng công nghiệp, niềm cảm hứng của giới trí thức trong những ngày đấu tranh cho công bằng và đoàn kết trên toàn thế giới; về thành công của chủ nghĩa xã hội trong việc giải phóng dân tộc khỏi ách phong kiến và thực dân và sự thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết trước đây trong việc hiện thực hóa giấc mơ của những người sáng tạo ra nó. Chúng ta cũng nên nói về những thành công và thất bại của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tự do, bình luận về sự gia tăng mất kiểm soát mà chúng tác động lên nền tài chính thế giới. 

Nếu tất cả những điều này được dạy một cách đúng đắn, sẽ có nhiều bài học được rút ra, và thế hệ trẻ cần phải học những bài học đó để có thể đối diện với nhiều khó khăn và thử thách mà họ sẽ gặp phải khi gánh vác sứ mệnh của mình với đất nước. 


(Trích lược từ bài diễn văn của GS Pierre Darriulat tại buổi họp mặt cộng tác viên cuối năm 2014 của Tạp chí Tia Sáng, bản dịch của Phạm Ngọc Điệp; nội dung trích lược được đăng với sự đồng ý của GS Pierre Darriulat).
Đọc thêm!

Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2015

Lỗi nhỏ… cần sửa


Mỗi lần có tổ chức thế giới nào đó đánh giá (xếp hạng) các học viện và đại học trên thế giới, chúng ta lại biết được vị trí của các đại học và trường đại học tại VN. Tại sao tôi không chỉ nói đại học mà còn nêu lên trường đại học ở VN? Điều này dễ hiểu vì các tổ chức xếp hạng thế giới đều dùng Anh ngữ để tìm hiểu rồi đánh giá, và khi tìm hiểu về các đại học ở VN, họ không biết đến hiện tượng – chỉ có ở VN – là nhiều đại học (universities) trong một đại học (university). Ví dụ, Trường đại học Bách Khoa Tp.HCM, có tên tiếng Anh là University of Technology, không đứng độc lập mà là một thành viên thuộc Đại học Quốc gia Tp.HCM với tên tiếng Anh là Vietnam National University – HCMC. Mỗi trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Tp. HCM đều mang một tên tiếng Anh là “University…” Như vậy đây không phải là nhiều “universities” trong một “university” thì là gì? Trước khi nói tiếp câu chuyện trên, chúng ta cần tìm hiểu cho rõ ràng những từ Anh ngữ liên quan đến vấn đề này. Đó là các từ: university, faculty, college, và school. Tôi chỉ có trong tay quyển Oxford Advanced Learner’s Dictionary of Current English, Encyclopedic Edition, nên liền tra ngay các từ vừa nói. Các định nghĩa có liên quan với nhau của mỗi từ được chép lại dưới đây.

 university (colleges, buildings, etc of an) institution that teaches and examines students in many branches of advanced learning, awarding degrees and providing facilities for academic research…
 faculty … department or group of related departments in a university, etc: the Faculty of Law, Science, etc…
 college 1 institution for higher education or professional training… 2 (a) (in Britain) any of a number of independent institutions within certain universities, each having its own teachers, students and buildings: the Oxford and CambridgeColleges ○ New College, Oxford. (b) (in the US) university, or part of one, offering undergraduate courses…
 school … 2 (US) college or university: famous schools like Yale and Harvard… 5 department of a university concerned with a particular branch of study: the law, medical, history school ○ the School of Dentistry…
Nói chung, các nước sử dụng Anh ngữ làm tiếng mẹ đẻ như Anh, Canada, Mỹ, Úc, v.v., thường có mỗi “university” theo đúng nghĩa là đại học[nghiên cứu] tổng hợp nhiều ngành, và các trường thành viên – cũng có thể gọi là khoa – của “university” đó (nằm chung trong một “làng đại học – campus” hoặc nằm ở nhiều vị trí riêng biệt) đều được gọi là “faculty,” “college,” hoặc “school.” Chính vì vậy mà ở các thành phố lớn của các nước này thường có nhiều “universities” theo đúng nghĩa vừa nói. Đối với người Mỹ, “college” hoặc “school” cũng có nghĩa là trường đại học. Ngay ở Lào, Đại học Quốc gia Lào tại Vạn Tượng (National University of Laos [in Vientiane] – NUOL) có một trường thành viên là Trường đại học (hoặc Khoa) Khoa học Kỹ thuật – nằm tại một cơ ngơi khá rộng và ngoài “campus” của ĐHQG Lào – có tên Anh ngữ là Faculty of Engineering. Quá đúng! Còn tại VN thì sao?
Các trường đại học như Trường đại học Khoa học Tự nhiên, Trường đại học Bách Khoa, Trường đại học Quốc tế, v.v., thuộc Đại học Quốc gia Việt Nam – TP.HCM, khi viết như thế bằng tiếng Việt thì không có gì là sai sót cả. (Tôi đề nghị cần thống nhất là mỗi thành viên của một đại học lớn Đại học Quốc gia VN thì cần thêm từ “trường” để thành “Trường đại học …”, còn một “đại học” mang tên một ngành riêng thì nên thêm từ “trường” thành “Trường đại học X.” Ví dụ, Trường đại học Bách Khoa Hà Nội dù chẳng thuộc “ông đại học” nào cả nhưng chỉ chuyên về ngành khoa học ứng dụng và kỹ thuật thì nên gọi nó là “Trường đại học BK HN” chứ không nên gọi tắt là “Đại học BK HN”). Tuy nhiên, tên Anh ngữ của các trường thành viên của ĐHQGVN đúng là có vấn đề. Vấn đề ở đây là “Mẹ” được gọi là “University” mà “[các] Con” cũng là “Universities.” Điều này chẳng khác nào một bàn tay có năm ngón, mỗi ngón có một tên khác nhau, cho dù đó là tiếng Việt hay tiếng Anh. Nhưng chẳng lẽ người Việt khi dùng tiếng Anh để giao dịch khi nói đến bàn tay là “hand” và mỗi ngón tay cũng là “hand” hay sao? Lâu nay đã có một số người nêu lên vấn đề này nhưng cho đến nay chẳng có gì thay đổi cả. Cách nay khoảng 10 năm, tôi có trao đổi với một người công tác về quan hệ quốc tế của một trường thành viên ĐHQGVN (người này nói và hiểu tiếng Anh khá tốt, và đã được công tác tại một số nước nói tiếng Anh) là khi một người nước ngoài – với Anh ngữ là tiếng mẹ đẻ – cầm một tuyển tập báo cáo khoa học với cả hai dòng chữ riêng biệt “Vietnam National University” và “University of ...” phía trên trang bìa thì ông/ bà ta sẽ nghĩ hội nghị đó do cả hai “universities” kể trên tổ chức. Câu đáp lời mà tôi nghe được là có thể tôi nói đúng nhưng “không sao, vì nhờ đó mà người nước ngoài ấy có cơ hội tìm hiểu thêm về trường đại học của ta.” Bó tay thôi với cách giải thích này. Tôi còn nghe một ông giáo sư tây kể lại lời giải thích về cái lỗi dùng từ này từ một quan chức đại học, nhưng xin cho tôi miễn kể lại ở đây.
Có một câu chuyện khác như thế này. Các ông giáo sư tây ưa khôi hài nói là VN thích “chơi” sang nên đặt ra Bộ Giáo dục và Đào tạo (Ministry of Education and Training – MOET) vừa giáo dục con người vừa huấn luyện thú vật. Đây chỉ là nói cho vui chứ sự việc chẳng có gì nghiêm trọng cả. Nhưng thực tế thì cụm từ “Đào tạo” có hơi bị thừa. Muốn hiểu lý do tại sao các vị ưa khôi hài có cớ để nói như vậy thì ta cứ tra trong cuốn tự điển tiếng Anh đã nói ở trên
 education 1 (system of) training and instruction (esp of children and young people in schools, colleges, etc) designed to give knowledge and develop skills: … 2 knowledge, abilities and the development of character and mental powers that result from such training: intellectual, moral, physical, etc education, …
 training process of preparing or being prepared for a sport or job … (Còn động từ train là “bring (a person or an animal) to a desired standard of efficiency, behaviour, etc by instruction and practice : ...”)
Như vậy, trong “education” đã có chuyện “training” rồi. Nhưng “education” là cả một hệ thống giáo dục dành riêng cho con người, còn “training” là quá trình đào tạo con người và huấn luyện thú vật. Do đó khi thêm từ “Đào tạo” vào trong “Bộ Giáo dục và Đào tạo” thì đó có nghĩa là “đào tạo con người và huấn luyện thú vật.” Đây chỉ là chuyện nhỏ, không cần phải sửa bỏ phần dư thừa. Nhưng chuyện các “universities” trong một “university” thì không phải như vậy. Đây là một lỗi không thể chấp nhận được.
Thế thì tại sao một lỗi nhỏ như vậy mà cho đến nay vẫn chưa sửa? Hay là các vị có trách nhiệm sợ phải tốn tiền cho sửa sai? Tiền sửa sai này chẳng thấm vào đâu so với nhiều lãng phí trong giáo dục, chẳng hạn như dự án 112. Vậy thì vấn đề nằm ở đâu? Qua một số lần trao đổi với nhiều người khác nhau về nền giáo dục VN, tôi hình dung ra vấn đề nằm ở chỗ mà nhiều người cũng thường nhắc tới là khi “trên” đã quyết định cái gì đó thì dù thế nào chăng nữa cũng không nên sửa đổi.
Một cái lỗi nhỏ như thế, cho dù không sửa cũng chẳng “chết” ai cả, nhưng nếu khả năng sửa đổi vẫn không có thì những chuyện lớn hơn bao giờ mới làm được đây?

NGUYỄN HẢI (Montréal)
Đọc thêm!

Thứ Tư, 1 tháng 4, 2015

Văn hóa phát ngôn của chính khách

Nguyễn Văn Mỹ (TGTT 30-03-2015)


Hè năm 2013, tôi đưa đoàn Hội Hữu nghị Việt Nam – Campuchia thành phố Hồ Chí Minh sang thăm Phnom Penh. Trong tiệc chiêu đãi, sau vài ly bia Angkor xoay vòng; Kepchuk Tema, đô trưởng, chủ tịch Hội Hữu nghị Campuchia – Việt Nam thủ đô ganh tị “Làm cán bộ Việt Nam là sướng nhất!”. “Tại sao?”, mấy vị khách hỏi lại. “Vì không phải sợ ai và cũng không có ai để sợ. Làm sai, cứ rút kinh nghiệm sâu sắc, thậm chí, cũng chẳng cần xin lỗi”. Ngưng một chút, ông trầm ngâm “Chẳng bù cho bọn này. Nói gì, làm gì cũng phải cân nhắc, nhìn trước ngó sau vì đối thủ luôn chờ mình sơ sẩy. Vì một câu nói thiếu suy nghĩ, mất chức như chơi”. Anh Lê Công Giàu, phó đoàn Việt Nam buột miệng “Nhờ vậy, mấy anh mới giỏi”. Ngẫm lại mới thấy nhận xét của bạn “chuẩn không cần chỉnh”. 

Có lẽ vì “không sợ ai và không có ai để sợ” nên từ việc nhỏ đến việc lớn, hứng là làm, chẳng thèm quan tâm đến dư luận xã hội. Cha ông mình từng dạy “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Ngôn phong thể hiện văn hóa nền, bản lĩnh và cả đạo đức cá nhân. Cán bộ nhỏ ăn nói tầm bậy đã đành, cán bộ lớn, phải trải qua nhiều chức vụ, học đủ thứ trường lớp, vậy mà nhiều khi vẫn phát ngôn ngang ngửa “hàng tôm hàng cá”. Vì không có người can ngăn, giám sát; có hình thức xử lý nên tình trạng phát ngôn tùy tiện, hớ hênh, phi lý của nhiều quan chức có chiều hướng gia tăng. Gần đây, phát ngôn của nhiều vị trở nên dậy sóng, thành chuyện tiếu lâm nhiều tập.

Còn nhớ câu nói nổi tiếng của Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng khi trả lời chất vấn trước Quốc hội chiều 12.11.2012 về chất lượng công trình, sai phạm tại tập đoàn và thị trường bất động sản: “Báo cáo với đại biểu Lê Như Tiến, câu hỏi của đại biểu chúng tôi có đầy đủ (tài liệu) nhưng để ở nhà. Mời đại biểu Lê Như Tiến sang và chúng tôi báo cáo…”

Tại cuộc họp quốc hội vào tháng 4 năm ngoái, bàn về trách nhiệm của Quốc hội khi đưa ra những quyết định, chủ trương sai, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nhấn mạnh: “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai”.

Trong phiên chất vấn kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII diễn ra chiều 17.11.2014, trả lời cử tri về vấn đề quản lý thị trường trước gian lận thương mại còn nhiều yếu kém, Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng phân trần: “Công tác đấu tranh của riêng Quản lý thị trường đã cố gắng nhưng phương tiện công cụ vừa yếu, vừa thiếu. Một câu chuyện có thật là, ở nhiều nơi thanh kiểm tra, anh em cán bộ phải dùng miệng để kiểm tra chất lượng phân bón!”.

Còn Bộ trưởng Phạm Vũ Luận khi trả lời chất vấn trước quốc hội hồi tháng 6.2014 đã giải thích con số dự toán 34.000 tỷ đồng trong dự thảo đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa sau năm 2015 là… “sai sót do lỗi kỹ thuật đánh máy”.

Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông bị đội vốn gần 340 triệu USD; dư luận bức xúc, nhưng Cục trưởng Cục Đường sắt Nguyễn Hữu Thắng lại nổi nóng: “Chúng tôi làm được nhiều cũng không ai khen ngợi hết, điều chỉnh một tý đã rùm beng cả lên”.

Mới nhất, bên lề cuộc họp báo chiều 17.3.2015, Phó Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội Phan Đăng Long đã giải thích việc thực hiện đề án chặt 6.700 cây ở Hà Nội mà bỏ qua việc lấy ý kiến nhân dân: “Cái gì cũng phải hỏi ý kiến (dân) hay sao? Bây giờ chỉ có chuyện trồng cây mà phải hỏi ý kiến dân! Tôi hỏi thế đất nước bây giờ động đến cái gì đi hỏi dân thì bầu ra chính quyền làm gì…” Trước đó, ông Long còn đẻ ra những thuật ngữ mới khi phát biểu về việc cướp hoa tre đến đổ máu ở lễ hội đền Gióng: “cần lưu ý, chữ ‘cướp’ ở đây không phải là cướp giật mà cướp có văn hóa!”…và …

Trong cuộc đời làm chính trị, những phát ngôn sơ sẩy có thể không tránh khỏi. Điều quan trọng là thái độ cầu thị, sửa sai sau đó. Trước những câu nói phũ phàng của các “đầy tớ” nhân dân, người dân có thể không bằng lòng nhưng cũng sẽ sẵn lòng tha thứ khi họ biết đó chỉ là lỡ lời. Và điều này phải được chính người mắc sai lầm thể hiện thông qua những việc làm thiết thực. Tuy nhiên, có những câu nói tưởng như hớ hênh, buột miệng, nhưng nó lại thể hiện cái tâm, cái tầm của người lãnh đạo. Khi những phát ngôn kiểu này liên tục bị phát tán, nó sẽ tích tụ lại để rất có thể tạo nên một cái nhìn không thiện cảm, hay lớn hơn là sự thất vọng về một lớp lãnh đạo hiện nay.

Ở Việt Nam, chưa thấy quan chức nào có phát ngôn kiểu đó bị phê bình. Có lẽ người ta sợ rằng quan chức là nhân tài đất nước, nếu đem ra xử chỉ vì nói một câu nói hớ hênh thì có thể “sẽ không còn cán bộ mà lãnh đạo”. Dường như, càng có chức, có quyền, việc xin lỗi càng khó khăn. Lãnh đạo là một khoa học hẳn hoi, nhưng nhiều quan chức lại quan niệm lãnh đạo đồng nghĩa với khoa học. Nguy hại là chỗ đó. Đất nước cứ mãi nghèo nàn phần lớn cũng từ đó.

Quá xức xúc trước những chuyện “cười ra nước mắt” này, thầy giáo tôi từng bảo, ông muốn mở một trường đào tạo phát ngôn cho lãnh đạo và cho rằng sẽ đắt như tôm tươi vì đông người học. Nhưng tôi lại cho rằng, sẽ không có ai học vì lãnh đạo Việt Nam vốn không sợ ai và không có ai để sợ.


Đọc thêm!

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

Ba nguyên nhân của vấn đề suy thoái về đạo đức, “xuống cấp” về văn hóa trong xã hội Việt Nam từ góc nhìn lịch sử - văn hóa

Nguyễn Trọng Bình

Thời gian qua, có nhiều ý kiến luận bàn nhằm lý giải nguyên nhân của vấn đề “xuống cấp về văn hóa”, “suy thoái về đạo đức” trong xã hội Việt Nam hiện nay. Từ góc nhìn lịch sử-văn hóa, người viết bài này mạo muội tiếp lời và đi vào mổ xẻ cụ thể hơn những vấn đề trên


1. Nguyên nhân thứ nhất: sự “xáo trộn” và “đứt gãy” các hệ giá trị văn hóa
1.1 Nước Việt Nam trước khi có mặt của người Pháp là một đất nước mà mọi vấn đề liên quan đến thể chế chính trị, thể chế văn hóa đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc từ Trung Hoa trong đó nổi bật nhất là học thuyết Nho giáo của Khổng Tử.

Khi người Pháp đặt chân lên và dần dần thiết lập sự thống trị trên toàn lãnh thổ thì như một lẽ tất yếu xã hội đã xảy ra những “va chạm”, “xung đột” trong nhận thức văn hóa của mỗi người dân. Xã hội Việt Nam từ đây chính thức bị phân hóa thành hai xu hướng kéo dài cho đến tận ngày nay. Xu hướng cổ vũ và ủng hộ văn hóa phương Tây và xu hướng lên án văn hóa phương Tây, ra sức bảo vệ những giá trị văn hóa có tính “truyền thống”. Đây có thể xem là “sự xáo trộn và mất ổn định” hay nói cách khác là sự “đứt gãy” và loạn chuẩn (mực) văn hóa đầu tiên trong xã hội Việt Nam.

1.2 Từ sau 1945, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đặc biệt là trong suốt thời kì xảy ra chiến giữa hai miền Nam Bắc thì một lần nữa những sự xáo trộn và “đứt gãy” văn hóa trong xã hội lại diễn ra. Thời kỳ này, đặc biệt là ở miền Bắc những vấn đề liên quan đến văn hóa phương Tây, văn hóa thời phong kiến bị lên án, bị phê phán thậm chí được là yêu cầu phải triệt để xóa bỏ. Khẩu hiệu:“Phú, Trí, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rể” là minh chứng tiêu biểu nhất cho vấn đề này. Đây là nhận thức ấu trĩ và sai lầm đã được Đảng thừa nhận sau này. Điều đáng nói là chính nhận thức này đã để lại hậu quả, những dư chấn rất nặng nề trong đời sống tinh thần của người Việt mãi cho đến ngày nay vì lẽ, sự xáo trộn và “đứt gãy” lần này là trầm trọng nhất. Sở dĩ nói sự xáo trộn và “đứt gãy” lần này là trầm trọng nhất là vì thời kỳ này hàng loạt hệ giá trị văn hóa của người Việt đã bị bức tử một cách không thương tiếc. Cụ thể, tất cả những gì liên quan đến văn hóa thời phong kiến đều bị xem là mê tín, là hủ tục (nói như nhà thơ Nguyễn Duy là “đền chùa thành kho hợp tác”), còn những giá trị văn hóa du nhập từ phương Tây đang dần đi vào ổn định thì bị xem là mang tính “tư sản”, “đồi trụy”, “phản động”...

Nói cách khác, nếu như ở lần “đứt gãy” thứ nhất tuy lúc đầu cũng là sự cưỡng bức của chính quyền thực dân Pháp nhưng về sau người Việt đã dần tự nguyện thay đổi và sàn lọc lại để từ đó làm phong phú thêm cho văn hóa dân tộc (điều này đã được chứng minh qua sự ra đời và thành công của thế hệ trí thức Tây học từ đầu thế kỷ XX đến 1945) thì lần “đứt gãy” thứ hai này hoàn toàn là sự cưỡng bức. Và trong khi các hệ giá trĩ cũ bị loại bỏ nhưng hệ giá trị mới chỉ vừa hình thành, chưa có sự ổn định nên tất yếu dẫn đến sự rối loạn. Vì những lý do khách quan của lịch sử nên những rối loạn ấy chưa có điều kiện để bùng phát ra nhưng có thể xem đây là thời kỳ “ủ bệnh”, chờ dịp chín muồi sẽ vỡ ra.
Tuy vậy, như đã nói thời kỳ này, những người dân sinh sống ở miền Bắc chịu ảnh hưởng nặng nề hơn các vùng miền khác. Đây phải chăng cũng chính là nguyên nhân làm cho sự “xuống cấp” về văn hóa và suy đồi về đạo đức biểu hiện qua sự bát nháo trong các mùa lễ hội ở các tỉnh phía Bắc hiện nay nặng nề hơn so với ở miền Nam hay “khúc giữa” miền Trung?

1.3 Sau ngày đất nước thống nhất cho đến nay thì như mọi người đã thấy xã hội lại phải hứng chịu thêm một lần “xáo trộn” và “đứt gãy” văn hóa với những biểu hiện qua hai giai đoạn rất cụ thể. Giai đoạn đầu là từ khi nước nhà thống nhất đến năm 1986 – năm có tính bước ngoặt đánh dấu cho sự đổi mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng nhằm cứu vãn đất nước đang đứng cheo leo bên bờ vực thẳm của đói nghèo trên tất cả mọi phương diện. Do “vật chất quyết định ý thức” nên từ đói nghèo về miếng cơm manh áo đã đưa đến hệ lụy là sự cằn cỏi về tâm hồn, sự trượt dốc về nhân tâm (hay như cách nói của người xưa “phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”). Có thể dẫn ra đây hàng loạt những truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp mà nội dung của nó đã phản ánh rất rõ cái tâm thế của cả một dân tộc trong thời kỳ này như một ví dụ cụ thể và sinh động nhất.

Giai đoạn thứ hai là từ sau 1986 và nhất là những năm đầu thế kỷ XXI cho đến nay. Có thể lý giải nguyên nhân của sự xáo trộn và “đứt gãy” văn hóa giai đoạn này này qua hai biểu hiện sau:

Một, do tâm lý mặc cảm vè sự nghèo đói, lạc hậu, trì trệ trước đó nên khi có điều kiện và cơ hội nhìn ra thế giới bên ngoài nhiều người đã không ngần ngại mở toang hết tất cả các cánh cửa ra để mặc tình cho các làn gió văn hóa ngoại ùa vào mà thiếu sự sàn lọc dẫn đến sự mất kiểm soát lúc nào không hay. Đại khái vấn đề này, nói như giáo sư Trần Văn Khê trong bài nói chuyện về vấn đề âm nhạc dân tộc là, lẽ ra khi chúng ta đón khách đến chơi thì phải dướng dẫn họ sang phòng khách để tiếp chuyện đằng này chúng ta đã lơ là để cho khách tự tiện đi lại hay thậm chí “trèo lên” cả bàn thơ tổ tiên ông bà mình trong nhà.

Hai, trước đây, do nhận thức sai lầm nên đã nhiều người đã hăng hái nhảy vô “đánh” tất cả những gì thuộc về “văn hóa phong kiến”, “văn hóa “tư sản”, hậu quả là những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, những đức tin của con người cũng theo đó bị xiêu đổ thì bây giờ khi có điều kiện nhìn nhận lại các giá trị ấy, tiếc thay, do thiếu hiểu biết nên đã xảy ra những chuyện dở khóc dở cười. Điều này thể hiện qua việc sự tùy tiện trong khi tiến hành phục dựng, trùng tu những di tích cổ; sự phóng đại, quốc gia hóa, quốc tế hóa những lễ hội truyền thống vốn chỉ ý nghĩa và diễn ra trong một cộng đồng dân cư nào đó...

1.4 Như vậy, có thể nói, do có quá nhiều sự “xáo trộn” và “đứt gãy” các hệ giá trị văn hóa của dân đã làm nẩy sinh tâm lý hoài nghi, hoang mang thậm chí mất phương hướng trong nhận thức văn hóa của nhiều người dân hiện nay. Nói cách khác, chính sự “xáo trộn” và “đứt gãy” những hệ giá trị văn hóa có tính khách quan trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc là một nguyên nhân sâu xa và căn bản nhất gây nên sự “xuống cấp” về văn hóa, suy thoái về đạo đức rất đáng sợ của dân tộc.

Bên cạnh đó, trước tình hình đất nước đầy phức tạp và ngổn ngang hiện nay, nhiều người thực sự không biết dựa vào đâu, tin vào ai, vào hệ giá trị văn hóa nào để xác lập cho bản thân một thái độ ứng xử phù hợp, đúng đắn. Nếu như trước đây nhà thơ Vũ Hoàng Chương nói thế hệ của ông là thế hệ“đầu thai nhầm thế kỷ” thì người dân (nhất là thế hệ trẻ) bây giờ cũng đang sống trong nỗi niềm và tâm trạng ấy. Thậm chí còn đau đớn và oằn oại hơn như cách nói của một nhà thơ trẻ nọ là:

“Ta ói ra ngàn lời khinh bỉ
Ta đi xiêu vẹo giữa đèn vàng
Ta vào nhầm triều, thờ nhầm chúa
Ta kết huynh đệ với phường gian...” [1]

Và như vậy, từ chỗ do mất phương hướng và mất niềm tin nên xã hội đang bắt đầu rơi vào tình trạng mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai. Hậu quả là như nhiều người đã và đang cảnh báo.

2. Nguyên nhân thứ hai: sự thất bại của hệ thống giáo dục “già nua” và lộn xộn
Giáo dục là một bộ phận của văn hóa, vì vậy, khi những hệ giá trị văn hóa bị “đứt gãy” thì đương nhiên giáo dục cũng bị tổn thương và ngược lại. Tuy vậy, ở đây chúng tôi muốn tách yếu tố giáo dục ra để phân tích và nhìn nhận như một nguyên nhân cốt lõi gây nên sự “xuống cấp” về văn hóa, suy thoái về đạo đức hiện nay, vì lẽ:

Thứ nhất, giáo dục suy cho cùng là con đường, là “công cụ” quan trọng nhất để nuôi dưỡng và bồi đắp văn hóa cho con người thế nhưng như mọi người đã thấy hệ thống giáo dục của chúng ta kể từ khi nước nhà thống nhất đến nay đã phơi bày quá nhiều những khiếm khuyết và hạn chế.

Có thể nói, thời gian qua người Việt Nam (nhất là thế hệ trẻ) thực ra không phải đang thụ hưởng mà là “chịu đựng” và “sống trong sợ hãi” trước một nền giáo dục “già nua”, lạc hậu và vô cùng lộn xộn. Trong đó, nổi bật hơn cả là quan điểm giáo dục mang nặng sự áp đặt một chiều về mọi vấn đề liên quan đến nhận thức, đến suy nghĩ của mỗi cá nhân trong xã hội. Nói khác đi, trong suốt một thời gian dài giáo dục đã không hoàn thành sứ mạng của nó là phát triển nhân cách, đạo đức cho con người vì bận làm tuyên truyền, cổ vũ cho những vấn đề cao siêu nhưng rất mơ hồ và không thực tế của một hệ thống chính trị. Sự áp đặt một chiều này cũng giống như người ta dùng cái bơm hơi để thổi không khí vào cái bong bóng một cách nhiệt tình và thái quá vì muốn nhanh chóng làm cho cái bong bóng kia căng tròn theo ý của riêng họ. Hậu quả là chẳng mấy chốc, “bùm” một cái bong bóng vỡ ra, mọi thứ trở nên lộn xộn và bát nháo cả lên.

Thứ hai, ở trên là nói về giáo dục nhìn từ phía hệ thống nhà trường chịu sự chi phối trục tiếp từ chính sách chung của Nhà nước. Còn nếu nhìn từ phía gia đình thì phải nói sự “lộn xộn” này cũng không thua kém gì.

Thời gian qua nhất là khi dất nước mở cửa để làm ăn đến nay điều dễ thấy nhất là cái “nếp nhà”, “cái gia phong lễ giáo” trong rất nhiều gia đình Việt bị đảo lộn hay thậm chí là hoàn toàn mất đi. Bên cạnh đó, có không ít người vì quá “yêu bản thân mình” đã cố níu kéo nhằm giữ cái “nếp nhà” ấy lại trong sự khắc khe và cứng nhắc nhằm thỏa mãn cái uy quyền, sự độc đoán và tính gia trưởng. Tức là, có không ít bậc phụ huynh vì muốn giữa cái “nếp nhà” truyền thống nhưng tiếc thay, họ hoàn toàn không màng đến sự vận động và thay đổi của môi trường xung quanh, không màng đến sự tiến bộ của thế giới trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Những người này, vì vậy, xem con cái như những chú chim non nên đã nhốt nó vào một cái lồng kín và hàng ngày mang nước và thức ăn đến chăm bẵm chúng rất cẩn thận. Thế nhưng, dù cẩn thận đến mấy cũng có lúc lơ là. Hậu quả là một lần nọ, chú chim kia được sổ lồng tung cánh bay ra bên ngoài. Trước bầu trời xanh bao la, thoạt đầu chú chim có chút ngạc nhiên nhưng ngay sau đó chú cảm thấy đây mới thật sự là thế giới của mình, là con đường, là cuộc đời của mình. Nghĩ vậy, nên chú không bao giờ quay lại cái lồng kín dù rất đẹp nhưng quá tù túng và chật chội...

Như vậy, có thể thấy, sự già nua và lộn xộn của hệ thống giáo dục (nhà trường lẫn gia đình) đã góp phần làm cho đạo đức, văn hóa của người Việt hiện nay thêm phần ngổn ngang và có nguy cơ mất kiểm soát.

3. Nguyên nhân thứ ba: hệ thống pháp luật thừa nghiêm khắc nhưng thiếu nghiêm minh
Có thể thấy so với nhiều nước khác trên thế giới thì Việt Nam là một trong số ít các quốc gia còn duy trì án tử hình cho những hành vi vi phạm luật của con người. Vấn đề này, theo tôi ít nhiều đã thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật Việt Nam. Tuy vậy, điều đáng bàn ở đây là tuy pháp luật Việt Nam nghiêm khắc như vậy nhưng khi thực thi lại rất không nghiêm minh. Và sự không nghiêm minh này thể rõ nhất ở sự bất công và thiên vị trắng trợn trong quá trình xử lý vi phạm giữa một bên là những người lãnh đạo có chức có quyền và một bên là những người dân; giữa một bên là những tầng lớp giàu có, ăn trên ngồi trước và một bên là đại bộ phận người dân nghèo khổ.

Thực ra vấn đề này, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây đều là như vậy chứ không riêng gì ở Việt Nam, tuy vậy phải thừa nhận rằng ở Việt Nam thời gian qua sự bất công này về mức độ và cường độ thì có vẻ như ngày một “đậm đặc” hơn.

Vừa rồi, trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 27/2/2015 và 2/3/2015 có đăng hai bài báo mà theo tôi đã phản ánh rất rõ sự bất công này.

Ở bài báo thứ nhất, liên quan đến một cô người mẫu nọ vì bênh vực người lái tắc xi vi phạm luật giao thông đã không ngần ngại mắng xối xả những người đang chấp pháp. Rất nhanh chóng cô này đã bị “bắt khẩn cấp” vì tội “chống người thi hành công vụ” ngay sau đó. [2]

Ở bài báo thứ hai thì đưa tin “11 lãnh đạo, cán bộ công an huyện Cư Kuin tỉnh Đắc Lắc liên quan đến vụ chạy án và rút súng dọa bắn đoàn kiểm tra liên ngành” bị xử kỷ luật “cảnh cáo” và chờ chuyển công tác lên... tỉnh [3]. Trong đó, đáng nói là trường hợp của vị thiếu tá công an Võ Ngọc Quang - Đội trưởng đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an huyện Cư Kuin đã rút súng doạ bắn đoàn công tác liên ngành khi ông được mời để thông báo lệnh khám xét nhà theo quyết định của UBND huyện Cư Kuin vi đơn tố cáo của nhân dân liên quan đến việc mua bán và tàng trữ trái phép gỗ quý. Theo đó, ngày 13/11 ông thiếu tá công đã “phanh ngực áo (đang mặc sắc phục công an), tỏ thái độ hung hăng, đe doạ đoàn công tác. Rồi bất ngờ ông Quang rút súng ngắn chĩa vào đoàn liên ngành, trần nhà doạ bắn khiến mọi người hoảng loạn, bỏ chạy. Sự việc diễn ra ngay tại phòng họp của trụ sở UBND huyện Cư Kuin” (trích báo cáo của Hạt kiểm lâm huyện Krông Ana – báo Tuổi trẻ ngày 2/11/2014).

Bỏ qua những vấn đề không liên quan, ở đây chúng ta thử so sánh hành động của cô người mẫu khi “phun châu nhả ngọc” vào mặt những người đang thực thi pháp luật và việc “rút súng dọa bắn” những người cũng đang thi hành nhiệm vụ để thấy hành động nào nguy hiểm cho xã hội hơn? Đương nhiên ai cũng thấy, việc rút súng dọa bắn người khác của ông thiếu tá công an là cực kỳ nguy hiểm thế nhưng cuối cùng thì sao? Cô người mẫu nọ “bị bắt khẩn cấp” còn ông thiếu tá công an chỉ bị kỷ luật “cảnh cáo”. Ở đây, phải khẳng định việc bắt cô người mẫu kia là không có gì sai nhưng vấn đề là hành động “rút súng dọa bắn” người khác của ông thiếu tá công an nguy hiểm hơn gấp nhiều lần và những quy định của pháp luật cũng sờ sờ ra đó nhưng không hiểu sao không có một cái lệnh “bắt khẩn cấp” nào được đưa ra?

Tương tự như vậy là trường hợp “xử lý” có tính chất “nội bộ” liên quan đến hai cựu quan chức trong bộ máy lãnh đạo vốn nổi đình nổi đám thời gian gần đây. Đó là trường hợp ông cựu Tổng thanh tra Chính phủ và ông cựu Tổng bí thư. Cũng xuất phát từ sự nghi ngờ của dư luận về tài sản “khủng” sau nhiều năm liêm khiết và tận tụy phụng sự nhân dân với đồng lương công chức “ba cọc ba đồng”. Thế nhưng, qua các phương tiện truyền, mọi người đã biết, ông cựu Tổng thanh tra Chính phủ thì bị “đánh” tơi bời còn ngài cựu Tổng Bí thư đến một câu nói cũng không một ai trong lực lượng chấp pháp hó hé (ở đây đúng ra cũng không thể gọi là xử lý)! Tại sao như vậy? Tôi tin ở chỗ này mọi người đã tự tìm ra câu trả lời cho riêng mình.

Trên đây chỉ là vài ví dụ điển hình trong vô thiên lủng những câu chuyện cho thấy sự thừa nghiêm khắc nhưng thiếu nghiêm minh của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.

Có thể nói, sự thừa nghiêm khác nhưng thiếu nghiêm minh của hệ thống pháp luật này không chỉ xảy ra giữa người dân và lãnh đạo chính quyền mà còn trong nội bộ những lãnh đạo với nhau. Một người dân bình thường mà vi phạm pháp luật thì nhìn chung sẽ bị xử lý rất nghiêm khắc (từ bản án cho đến công khai rộng rãi trong xã hội) nhằm “phòng ngừa, răn đe” nhưng nếu một lãnh đạo hay lãnh đạo cấp cao nào đó mà vi phạm tính nghiêm minh của pháp luật bị giảm sút một cách bất thường. Điều này nếu so sánh với các nước phát triển trên thế giới thì chẳng khác gì một trò hề, cười ra nước mắt.
Nhìn ở góc độ văn hóa, đây là biểu hiện của sự “loạn chuẩn” trong hành xử và ứng xử của những người được xã hội phân công nhằm thực thi công lý. Chính điều này đã làm cho pháp luật Việt Nam trở thành “có cũng như không” trong mắt những kẻ có quyền và có tiền; là nguyên nhân gây nên sự mất niềm tin cũng như tâm lý bất mãn và coi thường pháp luật, coi khinh lực lượng chấp pháp trong quần chúng nhân dân. Lâu dần, như nhiều người đã nói, vì không còn tin nữa nên một khi trong cuộc sống xảy ra va chạm dù lớn hay nhỏ thì người dân bắt đầu có xu hướng “tự xử” theo luật của riêng mình. Nhẹ thì ném vào nhau vô số những ngôn từ “chợ búa” (như kiểu cô người mẫu trong câu chuyện ở trên), nặng thì thông qua “nắm đấm”. Xã hội vì thế, nếu không loạn mới là chuyện lạ.

4. Thay lời kết
Trên đây là chỉ những luận giải thể hiện góc nhìn riêng trong sự hiểu biết còn hạn hẹp của người viết. Thật ra, 3 nguyên nhân mà chúng tôi đề cập ở trên trước đây ít nhiều đã có người chỉ ra. Vấn đề là những biểu hiện cụ thể trong từng vấn đề thì hình như nhiều ý kiến vẫn còn rất dè dặt, vẫn chưa dám “nhìn thẳng và nói cho rõ những sự thật”. Với tinh thần “quét rác”, “dọn rác” chứ không “bới rác”, người viết bài này thiển nghĩ: nếu chúng ta bàn về chuyện văn hóa của con người mà tiếng nói góp bàn lại không trung thực thì chẳng khác nào chính chúng ta chứ không ai khác đã vô tình tiếp tay cho sự “xuống cấp” về văn hóa, suy thoái về đạo đức trong xã hội thêm phần trầm trọng hơn? Bởi lẽ, một trong biểu hiện rõ nhất về sự sự “xuống cấp” về văn hóa, suy thoái về đạo đức trong xã hội ta hiện nay đó là sự lên ngôi của căn bệnh giả dối và không trung thực của con người trong các mối quan hệ đời sống.

Cần Thơ, 8/3/2015
N.T.B
------------
Chú thích nguồn:
[1]: Thơ Nguyễn Thiên Ngân
[2]: Báo Tuổi trẻ số ra ngày 27/2/2015 http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20150227/bat-khan-cap-nguoi-mau-dien-vien-trang-tran-ve-hanh-vi-chong-nguoi-thi-hanh-cong-vu/714347.html
[3]: Báo Tuổi trẻ số ra ngày 2/3/2015 http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20150302/bi-ky-luat-bon-cong-an-huyen-duoc-chuyen-lencong-an-tinh/715355.html
Đọc thêm!

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

Sống với Trung Quốc

Tạ Duy Anh

Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông
(Nguyễn Trãi)

Lời tự bạch:
Cổ nhân có câu: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Người thất học còn phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của xã tắc, nữa là một kẻ ít nhiều có đọc qua vài trang sách Thánh hiền.
Tôi có ba tư cách để viết chuyên luận này: Tư cách con dân Việt, tư cách chiến binh Việt bẩm sinh và tư cách một kẻ sĩ Việt.
Đọc thêm!

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

Dấu “Hỏi Ngã” Trong Văn Chương Việt Nam

Cao Chánh Cương
Văn hóa Việt Nam của chúng ta vô cùng phong phú. Một trong những nguồn phong phú vô ngàn mà trên thế giới không ai có, đó là ý nghĩa về dấu hỏi ngã. Viết sai dấu hỏi ngã sẽ làm đảo ngược và có khi vô cùng tai hại cho văn chương và văn hóa Việt Nam. Chúng tôi xin đơn cử một vài trường hợp như sau. 

Danh từ nhân sĩ, chữ sĩ phải được viết bằng dấu ngã để mô tả một vị chính khách có kiến thức văn hóa chính trị…, nhưng nếu vô tình chúng ta viết nhân sỉ, chữ sỉ với dấu hỏi thì ý nghĩa của danh từ nhân sĩ sẽ bị đảo ngược lại, vì chữ sĩ với dấu hỏi có nghĩa là nhục sĩ và như vậy sẽ bị trái nghĩa hoàn toàn. 

Đọc thêm!