Trang

Thứ Tư, 1 tháng 4, 2015

Văn hóa phát ngôn của chính khách

Nguyễn Văn Mỹ (TGTT 30-03-2015)


Hè năm 2013, tôi đưa đoàn Hội Hữu nghị Việt Nam – Campuchia thành phố Hồ Chí Minh sang thăm Phnom Penh. Trong tiệc chiêu đãi, sau vài ly bia Angkor xoay vòng; Kepchuk Tema, đô trưởng, chủ tịch Hội Hữu nghị Campuchia – Việt Nam thủ đô ganh tị “Làm cán bộ Việt Nam là sướng nhất!”. “Tại sao?”, mấy vị khách hỏi lại. “Vì không phải sợ ai và cũng không có ai để sợ. Làm sai, cứ rút kinh nghiệm sâu sắc, thậm chí, cũng chẳng cần xin lỗi”. Ngưng một chút, ông trầm ngâm “Chẳng bù cho bọn này. Nói gì, làm gì cũng phải cân nhắc, nhìn trước ngó sau vì đối thủ luôn chờ mình sơ sẩy. Vì một câu nói thiếu suy nghĩ, mất chức như chơi”. Anh Lê Công Giàu, phó đoàn Việt Nam buột miệng “Nhờ vậy, mấy anh mới giỏi”. Ngẫm lại mới thấy nhận xét của bạn “chuẩn không cần chỉnh”. 

Có lẽ vì “không sợ ai và không có ai để sợ” nên từ việc nhỏ đến việc lớn, hứng là làm, chẳng thèm quan tâm đến dư luận xã hội. Cha ông mình từng dạy “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Ngôn phong thể hiện văn hóa nền, bản lĩnh và cả đạo đức cá nhân. Cán bộ nhỏ ăn nói tầm bậy đã đành, cán bộ lớn, phải trải qua nhiều chức vụ, học đủ thứ trường lớp, vậy mà nhiều khi vẫn phát ngôn ngang ngửa “hàng tôm hàng cá”. Vì không có người can ngăn, giám sát; có hình thức xử lý nên tình trạng phát ngôn tùy tiện, hớ hênh, phi lý của nhiều quan chức có chiều hướng gia tăng. Gần đây, phát ngôn của nhiều vị trở nên dậy sóng, thành chuyện tiếu lâm nhiều tập.

Còn nhớ câu nói nổi tiếng của Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng khi trả lời chất vấn trước Quốc hội chiều 12.11.2012 về chất lượng công trình, sai phạm tại tập đoàn và thị trường bất động sản: “Báo cáo với đại biểu Lê Như Tiến, câu hỏi của đại biểu chúng tôi có đầy đủ (tài liệu) nhưng để ở nhà. Mời đại biểu Lê Như Tiến sang và chúng tôi báo cáo…”

Tại cuộc họp quốc hội vào tháng 4 năm ngoái, bàn về trách nhiệm của Quốc hội khi đưa ra những quyết định, chủ trương sai, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã nhấn mạnh: “Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai”.

Trong phiên chất vấn kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII diễn ra chiều 17.11.2014, trả lời cử tri về vấn đề quản lý thị trường trước gian lận thương mại còn nhiều yếu kém, Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng phân trần: “Công tác đấu tranh của riêng Quản lý thị trường đã cố gắng nhưng phương tiện công cụ vừa yếu, vừa thiếu. Một câu chuyện có thật là, ở nhiều nơi thanh kiểm tra, anh em cán bộ phải dùng miệng để kiểm tra chất lượng phân bón!”.

Còn Bộ trưởng Phạm Vũ Luận khi trả lời chất vấn trước quốc hội hồi tháng 6.2014 đã giải thích con số dự toán 34.000 tỷ đồng trong dự thảo đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa sau năm 2015 là… “sai sót do lỗi kỹ thuật đánh máy”.

Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông bị đội vốn gần 340 triệu USD; dư luận bức xúc, nhưng Cục trưởng Cục Đường sắt Nguyễn Hữu Thắng lại nổi nóng: “Chúng tôi làm được nhiều cũng không ai khen ngợi hết, điều chỉnh một tý đã rùm beng cả lên”.

Mới nhất, bên lề cuộc họp báo chiều 17.3.2015, Phó Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội Phan Đăng Long đã giải thích việc thực hiện đề án chặt 6.700 cây ở Hà Nội mà bỏ qua việc lấy ý kiến nhân dân: “Cái gì cũng phải hỏi ý kiến (dân) hay sao? Bây giờ chỉ có chuyện trồng cây mà phải hỏi ý kiến dân! Tôi hỏi thế đất nước bây giờ động đến cái gì đi hỏi dân thì bầu ra chính quyền làm gì…” Trước đó, ông Long còn đẻ ra những thuật ngữ mới khi phát biểu về việc cướp hoa tre đến đổ máu ở lễ hội đền Gióng: “cần lưu ý, chữ ‘cướp’ ở đây không phải là cướp giật mà cướp có văn hóa!”…và …

Trong cuộc đời làm chính trị, những phát ngôn sơ sẩy có thể không tránh khỏi. Điều quan trọng là thái độ cầu thị, sửa sai sau đó. Trước những câu nói phũ phàng của các “đầy tớ” nhân dân, người dân có thể không bằng lòng nhưng cũng sẽ sẵn lòng tha thứ khi họ biết đó chỉ là lỡ lời. Và điều này phải được chính người mắc sai lầm thể hiện thông qua những việc làm thiết thực. Tuy nhiên, có những câu nói tưởng như hớ hênh, buột miệng, nhưng nó lại thể hiện cái tâm, cái tầm của người lãnh đạo. Khi những phát ngôn kiểu này liên tục bị phát tán, nó sẽ tích tụ lại để rất có thể tạo nên một cái nhìn không thiện cảm, hay lớn hơn là sự thất vọng về một lớp lãnh đạo hiện nay.

Ở Việt Nam, chưa thấy quan chức nào có phát ngôn kiểu đó bị phê bình. Có lẽ người ta sợ rằng quan chức là nhân tài đất nước, nếu đem ra xử chỉ vì nói một câu nói hớ hênh thì có thể “sẽ không còn cán bộ mà lãnh đạo”. Dường như, càng có chức, có quyền, việc xin lỗi càng khó khăn. Lãnh đạo là một khoa học hẳn hoi, nhưng nhiều quan chức lại quan niệm lãnh đạo đồng nghĩa với khoa học. Nguy hại là chỗ đó. Đất nước cứ mãi nghèo nàn phần lớn cũng từ đó.

Quá xức xúc trước những chuyện “cười ra nước mắt” này, thầy giáo tôi từng bảo, ông muốn mở một trường đào tạo phát ngôn cho lãnh đạo và cho rằng sẽ đắt như tôm tươi vì đông người học. Nhưng tôi lại cho rằng, sẽ không có ai học vì lãnh đạo Việt Nam vốn không sợ ai và không có ai để sợ.


Đọc thêm!

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

Ba nguyên nhân của vấn đề suy thoái về đạo đức, “xuống cấp” về văn hóa trong xã hội Việt Nam từ góc nhìn lịch sử - văn hóa

Nguyễn Trọng Bình

Thời gian qua, có nhiều ý kiến luận bàn nhằm lý giải nguyên nhân của vấn đề “xuống cấp về văn hóa”, “suy thoái về đạo đức” trong xã hội Việt Nam hiện nay. Từ góc nhìn lịch sử-văn hóa, người viết bài này mạo muội tiếp lời và đi vào mổ xẻ cụ thể hơn những vấn đề trên


1. Nguyên nhân thứ nhất: sự “xáo trộn” và “đứt gãy” các hệ giá trị văn hóa
1.1 Nước Việt Nam trước khi có mặt của người Pháp là một đất nước mà mọi vấn đề liên quan đến thể chế chính trị, thể chế văn hóa đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc từ Trung Hoa trong đó nổi bật nhất là học thuyết Nho giáo của Khổng Tử.

Khi người Pháp đặt chân lên và dần dần thiết lập sự thống trị trên toàn lãnh thổ thì như một lẽ tất yếu xã hội đã xảy ra những “va chạm”, “xung đột” trong nhận thức văn hóa của mỗi người dân. Xã hội Việt Nam từ đây chính thức bị phân hóa thành hai xu hướng kéo dài cho đến tận ngày nay. Xu hướng cổ vũ và ủng hộ văn hóa phương Tây và xu hướng lên án văn hóa phương Tây, ra sức bảo vệ những giá trị văn hóa có tính “truyền thống”. Đây có thể xem là “sự xáo trộn và mất ổn định” hay nói cách khác là sự “đứt gãy” và loạn chuẩn (mực) văn hóa đầu tiên trong xã hội Việt Nam.

1.2 Từ sau 1945, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đặc biệt là trong suốt thời kì xảy ra chiến giữa hai miền Nam Bắc thì một lần nữa những sự xáo trộn và “đứt gãy” văn hóa trong xã hội lại diễn ra. Thời kỳ này, đặc biệt là ở miền Bắc những vấn đề liên quan đến văn hóa phương Tây, văn hóa thời phong kiến bị lên án, bị phê phán thậm chí được là yêu cầu phải triệt để xóa bỏ. Khẩu hiệu:“Phú, Trí, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rể” là minh chứng tiêu biểu nhất cho vấn đề này. Đây là nhận thức ấu trĩ và sai lầm đã được Đảng thừa nhận sau này. Điều đáng nói là chính nhận thức này đã để lại hậu quả, những dư chấn rất nặng nề trong đời sống tinh thần của người Việt mãi cho đến ngày nay vì lẽ, sự xáo trộn và “đứt gãy” lần này là trầm trọng nhất. Sở dĩ nói sự xáo trộn và “đứt gãy” lần này là trầm trọng nhất là vì thời kỳ này hàng loạt hệ giá trị văn hóa của người Việt đã bị bức tử một cách không thương tiếc. Cụ thể, tất cả những gì liên quan đến văn hóa thời phong kiến đều bị xem là mê tín, là hủ tục (nói như nhà thơ Nguyễn Duy là “đền chùa thành kho hợp tác”), còn những giá trị văn hóa du nhập từ phương Tây đang dần đi vào ổn định thì bị xem là mang tính “tư sản”, “đồi trụy”, “phản động”...

Nói cách khác, nếu như ở lần “đứt gãy” thứ nhất tuy lúc đầu cũng là sự cưỡng bức của chính quyền thực dân Pháp nhưng về sau người Việt đã dần tự nguyện thay đổi và sàn lọc lại để từ đó làm phong phú thêm cho văn hóa dân tộc (điều này đã được chứng minh qua sự ra đời và thành công của thế hệ trí thức Tây học từ đầu thế kỷ XX đến 1945) thì lần “đứt gãy” thứ hai này hoàn toàn là sự cưỡng bức. Và trong khi các hệ giá trĩ cũ bị loại bỏ nhưng hệ giá trị mới chỉ vừa hình thành, chưa có sự ổn định nên tất yếu dẫn đến sự rối loạn. Vì những lý do khách quan của lịch sử nên những rối loạn ấy chưa có điều kiện để bùng phát ra nhưng có thể xem đây là thời kỳ “ủ bệnh”, chờ dịp chín muồi sẽ vỡ ra.
Tuy vậy, như đã nói thời kỳ này, những người dân sinh sống ở miền Bắc chịu ảnh hưởng nặng nề hơn các vùng miền khác. Đây phải chăng cũng chính là nguyên nhân làm cho sự “xuống cấp” về văn hóa và suy đồi về đạo đức biểu hiện qua sự bát nháo trong các mùa lễ hội ở các tỉnh phía Bắc hiện nay nặng nề hơn so với ở miền Nam hay “khúc giữa” miền Trung?

1.3 Sau ngày đất nước thống nhất cho đến nay thì như mọi người đã thấy xã hội lại phải hứng chịu thêm một lần “xáo trộn” và “đứt gãy” văn hóa với những biểu hiện qua hai giai đoạn rất cụ thể. Giai đoạn đầu là từ khi nước nhà thống nhất đến năm 1986 – năm có tính bước ngoặt đánh dấu cho sự đổi mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng nhằm cứu vãn đất nước đang đứng cheo leo bên bờ vực thẳm của đói nghèo trên tất cả mọi phương diện. Do “vật chất quyết định ý thức” nên từ đói nghèo về miếng cơm manh áo đã đưa đến hệ lụy là sự cằn cỏi về tâm hồn, sự trượt dốc về nhân tâm (hay như cách nói của người xưa “phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”). Có thể dẫn ra đây hàng loạt những truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp mà nội dung của nó đã phản ánh rất rõ cái tâm thế của cả một dân tộc trong thời kỳ này như một ví dụ cụ thể và sinh động nhất.

Giai đoạn thứ hai là từ sau 1986 và nhất là những năm đầu thế kỷ XXI cho đến nay. Có thể lý giải nguyên nhân của sự xáo trộn và “đứt gãy” văn hóa giai đoạn này này qua hai biểu hiện sau:

Một, do tâm lý mặc cảm vè sự nghèo đói, lạc hậu, trì trệ trước đó nên khi có điều kiện và cơ hội nhìn ra thế giới bên ngoài nhiều người đã không ngần ngại mở toang hết tất cả các cánh cửa ra để mặc tình cho các làn gió văn hóa ngoại ùa vào mà thiếu sự sàn lọc dẫn đến sự mất kiểm soát lúc nào không hay. Đại khái vấn đề này, nói như giáo sư Trần Văn Khê trong bài nói chuyện về vấn đề âm nhạc dân tộc là, lẽ ra khi chúng ta đón khách đến chơi thì phải dướng dẫn họ sang phòng khách để tiếp chuyện đằng này chúng ta đã lơ là để cho khách tự tiện đi lại hay thậm chí “trèo lên” cả bàn thơ tổ tiên ông bà mình trong nhà.

Hai, trước đây, do nhận thức sai lầm nên đã nhiều người đã hăng hái nhảy vô “đánh” tất cả những gì thuộc về “văn hóa phong kiến”, “văn hóa “tư sản”, hậu quả là những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, những đức tin của con người cũng theo đó bị xiêu đổ thì bây giờ khi có điều kiện nhìn nhận lại các giá trị ấy, tiếc thay, do thiếu hiểu biết nên đã xảy ra những chuyện dở khóc dở cười. Điều này thể hiện qua việc sự tùy tiện trong khi tiến hành phục dựng, trùng tu những di tích cổ; sự phóng đại, quốc gia hóa, quốc tế hóa những lễ hội truyền thống vốn chỉ ý nghĩa và diễn ra trong một cộng đồng dân cư nào đó...

1.4 Như vậy, có thể nói, do có quá nhiều sự “xáo trộn” và “đứt gãy” các hệ giá trị văn hóa của dân đã làm nẩy sinh tâm lý hoài nghi, hoang mang thậm chí mất phương hướng trong nhận thức văn hóa của nhiều người dân hiện nay. Nói cách khác, chính sự “xáo trộn” và “đứt gãy” những hệ giá trị văn hóa có tính khách quan trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc là một nguyên nhân sâu xa và căn bản nhất gây nên sự “xuống cấp” về văn hóa, suy thoái về đạo đức rất đáng sợ của dân tộc.

Bên cạnh đó, trước tình hình đất nước đầy phức tạp và ngổn ngang hiện nay, nhiều người thực sự không biết dựa vào đâu, tin vào ai, vào hệ giá trị văn hóa nào để xác lập cho bản thân một thái độ ứng xử phù hợp, đúng đắn. Nếu như trước đây nhà thơ Vũ Hoàng Chương nói thế hệ của ông là thế hệ“đầu thai nhầm thế kỷ” thì người dân (nhất là thế hệ trẻ) bây giờ cũng đang sống trong nỗi niềm và tâm trạng ấy. Thậm chí còn đau đớn và oằn oại hơn như cách nói của một nhà thơ trẻ nọ là:

“Ta ói ra ngàn lời khinh bỉ
Ta đi xiêu vẹo giữa đèn vàng
Ta vào nhầm triều, thờ nhầm chúa
Ta kết huynh đệ với phường gian...” [1]

Và như vậy, từ chỗ do mất phương hướng và mất niềm tin nên xã hội đang bắt đầu rơi vào tình trạng mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai. Hậu quả là như nhiều người đã và đang cảnh báo.

2. Nguyên nhân thứ hai: sự thất bại của hệ thống giáo dục “già nua” và lộn xộn
Giáo dục là một bộ phận của văn hóa, vì vậy, khi những hệ giá trị văn hóa bị “đứt gãy” thì đương nhiên giáo dục cũng bị tổn thương và ngược lại. Tuy vậy, ở đây chúng tôi muốn tách yếu tố giáo dục ra để phân tích và nhìn nhận như một nguyên nhân cốt lõi gây nên sự “xuống cấp” về văn hóa, suy thoái về đạo đức hiện nay, vì lẽ:

Thứ nhất, giáo dục suy cho cùng là con đường, là “công cụ” quan trọng nhất để nuôi dưỡng và bồi đắp văn hóa cho con người thế nhưng như mọi người đã thấy hệ thống giáo dục của chúng ta kể từ khi nước nhà thống nhất đến nay đã phơi bày quá nhiều những khiếm khuyết và hạn chế.

Có thể nói, thời gian qua người Việt Nam (nhất là thế hệ trẻ) thực ra không phải đang thụ hưởng mà là “chịu đựng” và “sống trong sợ hãi” trước một nền giáo dục “già nua”, lạc hậu và vô cùng lộn xộn. Trong đó, nổi bật hơn cả là quan điểm giáo dục mang nặng sự áp đặt một chiều về mọi vấn đề liên quan đến nhận thức, đến suy nghĩ của mỗi cá nhân trong xã hội. Nói khác đi, trong suốt một thời gian dài giáo dục đã không hoàn thành sứ mạng của nó là phát triển nhân cách, đạo đức cho con người vì bận làm tuyên truyền, cổ vũ cho những vấn đề cao siêu nhưng rất mơ hồ và không thực tế của một hệ thống chính trị. Sự áp đặt một chiều này cũng giống như người ta dùng cái bơm hơi để thổi không khí vào cái bong bóng một cách nhiệt tình và thái quá vì muốn nhanh chóng làm cho cái bong bóng kia căng tròn theo ý của riêng họ. Hậu quả là chẳng mấy chốc, “bùm” một cái bong bóng vỡ ra, mọi thứ trở nên lộn xộn và bát nháo cả lên.

Thứ hai, ở trên là nói về giáo dục nhìn từ phía hệ thống nhà trường chịu sự chi phối trục tiếp từ chính sách chung của Nhà nước. Còn nếu nhìn từ phía gia đình thì phải nói sự “lộn xộn” này cũng không thua kém gì.

Thời gian qua nhất là khi dất nước mở cửa để làm ăn đến nay điều dễ thấy nhất là cái “nếp nhà”, “cái gia phong lễ giáo” trong rất nhiều gia đình Việt bị đảo lộn hay thậm chí là hoàn toàn mất đi. Bên cạnh đó, có không ít người vì quá “yêu bản thân mình” đã cố níu kéo nhằm giữ cái “nếp nhà” ấy lại trong sự khắc khe và cứng nhắc nhằm thỏa mãn cái uy quyền, sự độc đoán và tính gia trưởng. Tức là, có không ít bậc phụ huynh vì muốn giữa cái “nếp nhà” truyền thống nhưng tiếc thay, họ hoàn toàn không màng đến sự vận động và thay đổi của môi trường xung quanh, không màng đến sự tiến bộ của thế giới trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Những người này, vì vậy, xem con cái như những chú chim non nên đã nhốt nó vào một cái lồng kín và hàng ngày mang nước và thức ăn đến chăm bẵm chúng rất cẩn thận. Thế nhưng, dù cẩn thận đến mấy cũng có lúc lơ là. Hậu quả là một lần nọ, chú chim kia được sổ lồng tung cánh bay ra bên ngoài. Trước bầu trời xanh bao la, thoạt đầu chú chim có chút ngạc nhiên nhưng ngay sau đó chú cảm thấy đây mới thật sự là thế giới của mình, là con đường, là cuộc đời của mình. Nghĩ vậy, nên chú không bao giờ quay lại cái lồng kín dù rất đẹp nhưng quá tù túng và chật chội...

Như vậy, có thể thấy, sự già nua và lộn xộn của hệ thống giáo dục (nhà trường lẫn gia đình) đã góp phần làm cho đạo đức, văn hóa của người Việt hiện nay thêm phần ngổn ngang và có nguy cơ mất kiểm soát.

3. Nguyên nhân thứ ba: hệ thống pháp luật thừa nghiêm khắc nhưng thiếu nghiêm minh
Có thể thấy so với nhiều nước khác trên thế giới thì Việt Nam là một trong số ít các quốc gia còn duy trì án tử hình cho những hành vi vi phạm luật của con người. Vấn đề này, theo tôi ít nhiều đã thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật Việt Nam. Tuy vậy, điều đáng bàn ở đây là tuy pháp luật Việt Nam nghiêm khắc như vậy nhưng khi thực thi lại rất không nghiêm minh. Và sự không nghiêm minh này thể rõ nhất ở sự bất công và thiên vị trắng trợn trong quá trình xử lý vi phạm giữa một bên là những người lãnh đạo có chức có quyền và một bên là những người dân; giữa một bên là những tầng lớp giàu có, ăn trên ngồi trước và một bên là đại bộ phận người dân nghèo khổ.

Thực ra vấn đề này, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây đều là như vậy chứ không riêng gì ở Việt Nam, tuy vậy phải thừa nhận rằng ở Việt Nam thời gian qua sự bất công này về mức độ và cường độ thì có vẻ như ngày một “đậm đặc” hơn.

Vừa rồi, trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 27/2/2015 và 2/3/2015 có đăng hai bài báo mà theo tôi đã phản ánh rất rõ sự bất công này.

Ở bài báo thứ nhất, liên quan đến một cô người mẫu nọ vì bênh vực người lái tắc xi vi phạm luật giao thông đã không ngần ngại mắng xối xả những người đang chấp pháp. Rất nhanh chóng cô này đã bị “bắt khẩn cấp” vì tội “chống người thi hành công vụ” ngay sau đó. [2]

Ở bài báo thứ hai thì đưa tin “11 lãnh đạo, cán bộ công an huyện Cư Kuin tỉnh Đắc Lắc liên quan đến vụ chạy án và rút súng dọa bắn đoàn kiểm tra liên ngành” bị xử kỷ luật “cảnh cáo” và chờ chuyển công tác lên... tỉnh [3]. Trong đó, đáng nói là trường hợp của vị thiếu tá công an Võ Ngọc Quang - Đội trưởng đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an huyện Cư Kuin đã rút súng doạ bắn đoàn công tác liên ngành khi ông được mời để thông báo lệnh khám xét nhà theo quyết định của UBND huyện Cư Kuin vi đơn tố cáo của nhân dân liên quan đến việc mua bán và tàng trữ trái phép gỗ quý. Theo đó, ngày 13/11 ông thiếu tá công đã “phanh ngực áo (đang mặc sắc phục công an), tỏ thái độ hung hăng, đe doạ đoàn công tác. Rồi bất ngờ ông Quang rút súng ngắn chĩa vào đoàn liên ngành, trần nhà doạ bắn khiến mọi người hoảng loạn, bỏ chạy. Sự việc diễn ra ngay tại phòng họp của trụ sở UBND huyện Cư Kuin” (trích báo cáo của Hạt kiểm lâm huyện Krông Ana – báo Tuổi trẻ ngày 2/11/2014).

Bỏ qua những vấn đề không liên quan, ở đây chúng ta thử so sánh hành động của cô người mẫu khi “phun châu nhả ngọc” vào mặt những người đang thực thi pháp luật và việc “rút súng dọa bắn” những người cũng đang thi hành nhiệm vụ để thấy hành động nào nguy hiểm cho xã hội hơn? Đương nhiên ai cũng thấy, việc rút súng dọa bắn người khác của ông thiếu tá công an là cực kỳ nguy hiểm thế nhưng cuối cùng thì sao? Cô người mẫu nọ “bị bắt khẩn cấp” còn ông thiếu tá công an chỉ bị kỷ luật “cảnh cáo”. Ở đây, phải khẳng định việc bắt cô người mẫu kia là không có gì sai nhưng vấn đề là hành động “rút súng dọa bắn” người khác của ông thiếu tá công an nguy hiểm hơn gấp nhiều lần và những quy định của pháp luật cũng sờ sờ ra đó nhưng không hiểu sao không có một cái lệnh “bắt khẩn cấp” nào được đưa ra?

Tương tự như vậy là trường hợp “xử lý” có tính chất “nội bộ” liên quan đến hai cựu quan chức trong bộ máy lãnh đạo vốn nổi đình nổi đám thời gian gần đây. Đó là trường hợp ông cựu Tổng thanh tra Chính phủ và ông cựu Tổng bí thư. Cũng xuất phát từ sự nghi ngờ của dư luận về tài sản “khủng” sau nhiều năm liêm khiết và tận tụy phụng sự nhân dân với đồng lương công chức “ba cọc ba đồng”. Thế nhưng, qua các phương tiện truyền, mọi người đã biết, ông cựu Tổng thanh tra Chính phủ thì bị “đánh” tơi bời còn ngài cựu Tổng Bí thư đến một câu nói cũng không một ai trong lực lượng chấp pháp hó hé (ở đây đúng ra cũng không thể gọi là xử lý)! Tại sao như vậy? Tôi tin ở chỗ này mọi người đã tự tìm ra câu trả lời cho riêng mình.

Trên đây chỉ là vài ví dụ điển hình trong vô thiên lủng những câu chuyện cho thấy sự thừa nghiêm khắc nhưng thiếu nghiêm minh của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.

Có thể nói, sự thừa nghiêm khác nhưng thiếu nghiêm minh của hệ thống pháp luật này không chỉ xảy ra giữa người dân và lãnh đạo chính quyền mà còn trong nội bộ những lãnh đạo với nhau. Một người dân bình thường mà vi phạm pháp luật thì nhìn chung sẽ bị xử lý rất nghiêm khắc (từ bản án cho đến công khai rộng rãi trong xã hội) nhằm “phòng ngừa, răn đe” nhưng nếu một lãnh đạo hay lãnh đạo cấp cao nào đó mà vi phạm tính nghiêm minh của pháp luật bị giảm sút một cách bất thường. Điều này nếu so sánh với các nước phát triển trên thế giới thì chẳng khác gì một trò hề, cười ra nước mắt.
Nhìn ở góc độ văn hóa, đây là biểu hiện của sự “loạn chuẩn” trong hành xử và ứng xử của những người được xã hội phân công nhằm thực thi công lý. Chính điều này đã làm cho pháp luật Việt Nam trở thành “có cũng như không” trong mắt những kẻ có quyền và có tiền; là nguyên nhân gây nên sự mất niềm tin cũng như tâm lý bất mãn và coi thường pháp luật, coi khinh lực lượng chấp pháp trong quần chúng nhân dân. Lâu dần, như nhiều người đã nói, vì không còn tin nữa nên một khi trong cuộc sống xảy ra va chạm dù lớn hay nhỏ thì người dân bắt đầu có xu hướng “tự xử” theo luật của riêng mình. Nhẹ thì ném vào nhau vô số những ngôn từ “chợ búa” (như kiểu cô người mẫu trong câu chuyện ở trên), nặng thì thông qua “nắm đấm”. Xã hội vì thế, nếu không loạn mới là chuyện lạ.

4. Thay lời kết
Trên đây là chỉ những luận giải thể hiện góc nhìn riêng trong sự hiểu biết còn hạn hẹp của người viết. Thật ra, 3 nguyên nhân mà chúng tôi đề cập ở trên trước đây ít nhiều đã có người chỉ ra. Vấn đề là những biểu hiện cụ thể trong từng vấn đề thì hình như nhiều ý kiến vẫn còn rất dè dặt, vẫn chưa dám “nhìn thẳng và nói cho rõ những sự thật”. Với tinh thần “quét rác”, “dọn rác” chứ không “bới rác”, người viết bài này thiển nghĩ: nếu chúng ta bàn về chuyện văn hóa của con người mà tiếng nói góp bàn lại không trung thực thì chẳng khác nào chính chúng ta chứ không ai khác đã vô tình tiếp tay cho sự “xuống cấp” về văn hóa, suy thoái về đạo đức trong xã hội thêm phần trầm trọng hơn? Bởi lẽ, một trong biểu hiện rõ nhất về sự sự “xuống cấp” về văn hóa, suy thoái về đạo đức trong xã hội ta hiện nay đó là sự lên ngôi của căn bệnh giả dối và không trung thực của con người trong các mối quan hệ đời sống.

Cần Thơ, 8/3/2015
N.T.B
------------
Chú thích nguồn:
[1]: Thơ Nguyễn Thiên Ngân
[2]: Báo Tuổi trẻ số ra ngày 27/2/2015 http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20150227/bat-khan-cap-nguoi-mau-dien-vien-trang-tran-ve-hanh-vi-chong-nguoi-thi-hanh-cong-vu/714347.html
[3]: Báo Tuổi trẻ số ra ngày 2/3/2015 http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20150302/bi-ky-luat-bon-cong-an-huyen-duoc-chuyen-lencong-an-tinh/715355.html
Đọc thêm!

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

Sống với Trung Quốc

Tạ Duy Anh

Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông
(Nguyễn Trãi)

Lời tự bạch:
Cổ nhân có câu: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Người thất học còn phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của xã tắc, nữa là một kẻ ít nhiều có đọc qua vài trang sách Thánh hiền.
Tôi có ba tư cách để viết chuyên luận này: Tư cách con dân Việt, tư cách chiến binh Việt bẩm sinh và tư cách một kẻ sĩ Việt.
Đọc thêm!

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

Dấu “Hỏi Ngã” Trong Văn Chương Việt Nam

Cao Chánh Cương
Văn hóa Việt Nam của chúng ta vô cùng phong phú. Một trong những nguồn phong phú vô ngàn mà trên thế giới không ai có, đó là ý nghĩa về dấu hỏi ngã. Viết sai dấu hỏi ngã sẽ làm đảo ngược và có khi vô cùng tai hại cho văn chương và văn hóa Việt Nam. Chúng tôi xin đơn cử một vài trường hợp như sau. 

Danh từ nhân sĩ, chữ sĩ phải được viết bằng dấu ngã để mô tả một vị chính khách có kiến thức văn hóa chính trị…, nhưng nếu vô tình chúng ta viết nhân sỉ, chữ sỉ với dấu hỏi thì ý nghĩa của danh từ nhân sĩ sẽ bị đảo ngược lại, vì chữ sĩ với dấu hỏi có nghĩa là nhục sĩ và như vậy sẽ bị trái nghĩa hoàn toàn. 

Đọc thêm!

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan

Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục – ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một. 

Tôi có một nước Nhật để tự hào 
 Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”. Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.

 Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời. 

 Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết. 

Bạn cũng có một nước Việt để tự hào 
 Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa… Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy

Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy. 
Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi

Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày. 

Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mun, lọc lừa. 

Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi… Vì đâu nên nỗi? 

Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi? 

Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm! Thật vậy sao?
Đọc thêm!

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

Chuyện cổ tích Cinderella

Giờ học văn bắt đầu. Hôm nay thầy giảng bài truyện Cô bé Lọ Lem

Trước tiên thầy gọi một học sinh lên kể chuyện Cô bé Lọ lem. Em học sinh kể xong, thầy cảm ơn rồi bắt đầu hỏi.

Đọc thêm!

Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Lầm lẫn

Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
 Không nghe là điếc không trông là mù

  Đừng tưởng cứ trọc là sư
Cứ vâng là chịu cứ ừ là ngoan
Đừng tưởng có của đã sang
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây
Đừng tưởng cứ uống là say
Cứ chân là bước cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ
Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ mới là tân
Cứ hứa là chắc cứ ân là tình
 *****
Đừng tưởng đàn khảy tai trâu
Là ngu không biết trên đầu có ai
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Cứ già là hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Dưa vàng đừng tưởng đã chua
Sấm rền đừng tưởng sắp mưa ngập trời
Khi vui đừng tưởng chỉ cười
Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than

***
Đừng tưởng cứ nốc là say
Cứ hứa là thật, cứ tay là cầm
Đừng tưởng cứ giặc - ngoại xâm
Cứ bè là bạn, cứ dân là lành
Đừng tưởng cứ trời là xanh
Cứ đất và nước là thành quê hương
 ***** 
Đừng tưởng cứ lớn là khôn
Cứ bé là dại, cứ hôn... là chồng
Đừng tưởng chẳng có thì không
Chẳng trai thì gái, chẳng ông thì bà
Đừng tưởng chẳng gần thì xa
Chẳng ta thì địch, chẳng ma thì người
Đừng tưởng chẳng khóc thì cười
Chẳng lên thì xuống, chẳng ngồi thì đi
Đừng tưởng sau nhất là nhì
Gần quan là tướng, gần suy là hèn
Đừng tưởng cứ sáng là đèn
Cứ đỏ là chín, cứ đen là thường
*****
Đừng tưởng cứ đẹp là thương
Cứ xấu là ghét, cứ vương là tình
Đừng tưởng cứ ghế là vinh
Cứ tiền là mạnh, cứ dinh là bền
Đừng tưởng cứ cố là lên
Cứ lỳ là chắc, cứ bên là gần
Đừng tưởng cứ đều là cân
Cứ đông là đủ, cứ ân là nhờ
Đừng tưởng cứ vần là thơ
Cứ âm là nhạc, cứ tờ là tranh
Đừng tưởng cứ vội thì nhanh
Cứ tranh là được, cứ giành thì hơn
Đừng tưởng giàu hết cô đơn
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo
*****
Đừng tưởng cứ bến là neo
Cứ suối là lội, cứ đèo là qua
Đừng tưởng chồng mẹ là cha
Cứ khóc là khổ cứ la là phiền
Đừng tưởng cứ hét là điên
Cứ làm là sẽ có tiền đến ngay
Đừng tưởng cứ rượu là say
Cứ gió là sẽ tung bay cánh diều
Đừng tưởng tỏ tình là yêu
Cứ thơ ngọt nhạt là chiều tương tư

*****

Đừng tưởng đi là sẽ chơi
Lang thang dạo phố vào nơi hư người
Đừng tưởng vui thì sẽ cười
Đôi hàng nước mắt lệ rơi đầm đìa
Đừng tưởng cứ mực là bia
Bút sa gà chết nhân chia cộng trừ...
Đừng tưởng cứ gió là mưa
Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè
Đừng tưởng cứ hạ là ve
Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn...
Đừng tưởng thu là lá tuôn
Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.

*****

Đừng tưởng cứ thích là yêu
Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay
Đừng tưởng tình chẳng lung lay
Chỉ một giấc ngủ, chẳng may ... có bầu.
Đừng tưởng cứ cầu là hên,
Nhiều khi gặp hạn, ngồi rên một mình.
Đừng tưởng tìm bạn tri âm,
Là sẽ có kẻ mạn đàm suốt đêm.
Đừng tưởng đời mãi êm đềm,
Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.

*****

Đừng tưởng cười nói ân cần,
Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.
Đừng tưởng trong lưỡi có đường
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người
Đừng tưởng cứ chọc là cười
Nhiều khi nói móc biết cười làm sao
Đừng tưởng khó nhọc gian lao
Vượt qua thử thách tự hào lắm thay
*****

Đừng tưởng cứ giỏi là hay
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần
Đừng tưởng cứ quỳnh là thơm
Nhìn đi nhìn lại hóa ra cúc quỳ
Đừng tưởng mưa gió ầm ì
Ngày thì đã hết trời dần về đêm
Đừng tưởng nắng gió êm đềm
Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng
Đừng tưởng góp sức là chung
Chỉ là lợi dụng lòng tin của người
Đừng tưởng cứ tiến là lên
Cứ lui là xuống, cứ yên là mằn

*****

Đừng tưởng rằm sẽ có trăng
Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu
Đừng tưởng cứ khóc là sầu
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
Đừng tưởng cứ nước là trong
Cứ than là hắc, cứ sao là vàng
Đừng tưởng cứ củi là than
Cứ quan là có, cứ dân là nghèo
Đừng tưởng cứ khúc là eo
Cứ lúc là mạt, cứ sang là giầu
Đừng tưởng cứ thế là khôn!
Nhiều thằng khốn nạn còn hơn cả mình
Đừng tưởng lời nói là tiền
Có khi là những oán hận chưa tan
Đừng tưởng dưới đất có vàng
Vàng đâu chả thấy phí tan cuộc đời

*****  

Đừng tưởng cứ nghèo là hèn
Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đời người lục thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên...!
Đọc thêm!

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Trăn trở của kẻ lười biếng - Khi Lãn Ông lên tiếng gởi người lớn

Hình như chàng trai lớp 12 chân thành hùng biện trong clip tự quay đòi hỏi cuộc sống hành xử Tự do và Dân chủ trong Giáo dục như vậy.

  Lịch sử có nhiều hiện tượng lặp lại, song khó có thể tin rằng con người bao giờ cũng có ý thức đúng về những diễn biến giống nhau. Chẳng hạn như chuyện bạn học sinh lớp 12 tự làm clip phát biểu về nền Giáo dục nước nhà năm 2013. Liệu bạn đó có ý thức mình đang là kẻ nổi loạn hay không? Liệu trong một mức độ nào đó, bạn có thấy là mình đang làm lại hành vi của nhiều học sinh trường Bưởi đầu thế kỷ trước như Đặng Xuân Khu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Khắc Viện ... nay nhắc lại thấy như một thời nào đó đã lùi xa ... quá xa khỏi ký ức người đương thời hôm nay vào năm 2013 này? Còn xa hơn sâu hơn nữa vào Lịch sử, em học sinh lớp 12 đã tự gọi mình là "kẻ lười biếng". Song sự so sánh đó chắc chắn chỉ là tình cờ. Người học trò Việt Nam của năm 2013 ấy làm sao đủ trình độ, đủ ý thức, đủ can đảm và đủ cả liều lĩnh so sánh mình với "kẻ lười biếng quê vùng biển" là Hải Thượng Lãn ông! Đơn giản thế này thôi: chàng trai lớp 12 trong clip tự quay chỉ mới có nổi một ý thức phản kháng đủ để anh lên tiếng gửi người lớn, gửi tất cả những người lớn có trách nhiệm trước sự nghiệp giáo dục của đất nước một lời dõng dạc này thôi: "Này, người lớn, các vị hãy nhìn vào chúng tôi đây, hãy nhìn kỹ những sản phẩm ra lò của các vị đây: thế hệ học trò chúng tôi đây, một lũ ngu và lười". Câu nói ấy gợi cho tất cả chúng ta một liên tưởng: chỉ là "thế hệ chúng tôi" thôi ư? Còn thế hệ các vị, thế hệ đã đúc khuôn thành chúng tôi thì sao? Đã gọi là liên tưởng, thì liên tưởng này nhất thiết sẽ dắt dây sang một liên tưởng khác cho đến một liên tưởng gần như kiệt cùng: các vị đã tổ chức nền giáo dục ra sao, theo hình ảnh nào để chúng tôi đến nông nỗi này - để chúng tôi thành một lũ ngu và lười, liệu các vị có thoát khỏi trách nhiệm trước tình trạng ấy không? Chàng trai trong clip ấy không nói thẳng hết ý nghĩ "nổi loạn" của thế hệ mình. Chàng trai ấy chỉ tập trung nêu câu hỏi: học biết bao nhiêu những "thứ đó" nhưng học để làm gì? Đây là câu hỏi khó trả lời ngay cả đối với khá nhiều người lớn. Bởi suy cho cùng thì mục đích học của họ cũng chỉ là để có một mảnh bằng "chính chủ" cộng thêm văn bằng hai văn bằng ba văn bằng bốn, cuối cùng cũng chỉ để nhăm nhe một chức quan to nhỏ, và chỉ đến thế thôi. Và trong suốt quá trình học, thì việc tự tìm đến tri thức bị coi là phụ, mà cả cuộc đời học đường hầu như chỉ là chuyện thi cử, suốt đời thi cử, mươi hai năm đằng đẵng thi cử... để làm gì? Chàng trai trong clip đã nói toạc ra: nếu không có chuyện thi, liệu còn có ai chịu học bài? Rõ ràng, trong câu hỏi ấy, người học trò "ngu và lười" bộc lộ nguyện vọng của mình rằng anh ta muốn học, học, và học, học khổ đến bao nhiêu cũng được, nhưng không chấp nhận cái khổ của thi cử, không bằng lòng coi thi cử như một kích thích cho việc học. Nguyện vọng ấy nếu được thực thi sẽ bẻ gãy cái roi của những nhà giáo dục các cỡ. Roi từ gia đình, từ họ tộc, từ truyền thống trường, từ những khu phố văn hóa đầy ma túy và bạo lực, và từ những cuộc ganh đua "chăm phần chăm" - áp lực của thói quen tư duy trong một nền văn hóa của số lượng và của sự thô kệch, nơi các "nhà văn hóa" chỉ nhìn thấy sức mạnh giả định trong đám đông, nơi đó tất cả những Einstein những Gandhi và những Charles Chaplin chụm lại cũng chỉ có thể chiếm 1 phần trăm sau nhiều số không đứng sau dấu phẩy! Dường như ta có nghe thấy em học sinh lớp 12 trong clip đó nói thế này: chúng con kính trọng các thày, nhưng xin thày hãy thoát ra khỏi cách diễn giải vẫn còn thiếu thẳng băng, đòi thế tục hóa nền Giáo dục khỏi mọi chủ thuyết. Dường như em học sinh lớp 12 vô danh đó đang nói thay các thế hệ tương lai, rằng các thày hãy Tự do trong giảng dạy và trong hành động. Tự do là cái Quyền thiêng liêng nhất mà Tự Nhiên phú cho con người. Có ai cấm các thày tạo ra những bộ sách mới theo chương trình học mới làm hả hê thỏa thuê nguyện vọng chấn hưng đất nước của các thày? Ngay cả ở bậc đại học là bậc phải dành lấy quyền tự chủ mà các thày cũng cứ bó tay cho sự Tự do trôi tuột đi mất, thế thì lũ trẻ con "ngu và lười" chúng em còn biết trông cậy vào đâu nữa? Các thầy hãy hành động tự do như trí tuệ tự do của các thày thôi thúc. Còn về phía xã hội, những nhà lãnh đạo phải có sứ mệnh dân chủ hóa cuộc chạy đua tự do vì sự nghiệp chấn hưng văn hóa và giáo dục của dân tộc. (Dân chủ hóa nói ở đây nghĩa là đối xử không phân biệt với mọi khuynh hướng sáng tạo văn hóa và giáo dục khác nhau). Nhưng giữa hai khuynh hướng Tự do và Dân chủ ấy, thì cần coi trọng khuynh hướng thứ nhất hơn. Dân chủ thì trước sau gì rồi cũng sẽ tới với cuộc sống xã hội. Nhưng Tự do là cái có sẵn trong từng con người sáng tạo. Sản phẩm của Tự do cách tân nền Giáo dục cho cả một Dân tộc sẽ xóa sổ những thứ tự do vờ vịt cốt nuốt trôi lợi nhuận một trường tư thục là cùng. Trong Tự do có sự thi đua lành mạnh của những tài năng đích thực vì nước vì dân. Hình như chàng trai lớp 12 chân thành hùng biện trong clip tự quay đòi hỏi cuộc sống hành xử Tự do và Dân chủ trong Giáo dục như vậy. Theo Phạm Toàn/ Tia Sáng
Đọc thêm!