Trang

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Giới thông thái chân đất

Công cuộc phát triển đòi hỏi đất nước phải có một tầng lớp trí thức ngang tầm quốc tế và khu vực, ở đó không thể có sự nửa vời, sự tự hạ thấp tiêu chuẩn để làm dáng.

Nền giáo dục đơn sơ

Ảnh: truongxua.net

Nhiều năm qua chúng ta hay nói một cách hồn nhiên rằng dân ta ham học và trong quá khứ ta có một nền giáo dục chẳng kém gì những nước khác. Bản thân tôi ban đầu cũng tin như thế, sau thực tế ngày càng thấy phải nói ngược lại.

Trong một cuốn sách lịch sử giáo dục (1) tôi thấy người ta chỉ ra rằng thật ra giáo dục là chuyện xài sang. Chỉ những đất nước giàu có mới có tiền của để chi cho giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Khi nền kinh tế ở trình độ tiểu nông manh mún, thậm chí trình độ hái lượm, con người có mỗi việc kiếm ăn đã không làm nổi, ta chỉ có thứ giáo dục ở dạng đơn sơ, kém cỏi.

Ta hay khoe, người dân quê nào ở nông thôn VN cũng sẵn sàng bớt ăn bớt mặc cho con đến học ở các thầy đồ lấy “năm ba chữ thánh hiền”.

Nhưng hãy nhìn kỹ vào những lớp học đó. Trường sở sơ sài. Sách vở tài liệu không có, đến bữa cơm chắc bụng cho người dạy cũng không có nốt (nhiều truyện tiếu lâm toàn ghi lại chuyện thầy đồ ăn vụng) - thử hỏi sau mấy năm theo học các ông thầy ấy, phần lớn các cậu học trò nhà quê học được gì ? Biết dăm ba chữ để đủ đọc tên mình trong khế ước văn tự thế thôi chứ làm sao hơn được?!
Sự ham học có tính cá nhân nông nổi đó chưa bao giờ kết hợp với nỗ lực của cộng đồng để xây dựng nổi cơ chế giáo dục hợp lý và một nội dung giáo dục lâu dài, có triển vọng.

Đọc lịch sử, đời Lê, sau khi đánh xong giặc Minh, nhà vua lo cầu hiền tài để chọn quan lại ở cấp cơ sở. Chọn như thế nào? Chẳng qua chỉ một số người tinh nhanh đủ chữ ghi chép và … biết làm tính (2).

Theo như cách nói của một tác giả trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật thì một nét đặc thù của trí thức VN trong lịch sử là tính cách lưỡng phân. Ông Nguyễn An Ninh, tác giả bài này giải thích: Họ vừa là kẻ sĩ vừa là nông dân. Khi không thể sống bằng chữ tức bằng nghề của mình, nhu cầu trí tuệ của họ bị giảm thiểu. Những xung lực cho hoạt động trí tuệ ở họ thường xuyên bị kìm hãm. Gặp hoàn cảnh khó khăn , họ dễ bị hư hỏng.

Tính cách lưỡng phân ấy là cả một ám ảnh, như ám ảnh về quê hương nghèo đói. Ta hiểu tại sao một số trí thức tỉnh táo khi đã thành đạt, vẫn không thể quên nguồn gốc của mình, cái nơi mà từ đó mình đi tới.

Đây là lời dặn của Nguyễn Khuyến cho con cái:
Các con nối nghiệp cha nên biết
Nghiên bút đừng quên đậu lúa cà

Thế sao những người nông dân một nửa này vẫn miệt mài đèn sách để có ngày lều chõng khoa cử thì sao? Bởi việc nhồi vào óc một ít kiến thức cổ lỗ sở dĩ thu hút được toàn bộ tinh hoa nghị lực của nhiều người vì đó là con đường ngắn nhất để được gia nhập vào hàng ngũ quan chức.

Không có sản phẩm trí thức
Tự hào về nền giáo dục xưa, ta hay đưa dẫn chứng là trong lịch sử, các triều đại đã mở nhiều khoa thi và đã lấy được nhiều tiến sĩ, các bia tiến sĩ đó còn được đặt trong Văn miếu. Nhưng thử hỏi trước tác của các vị tiến sĩ đó là gì hay chỉ là những bài văn mòn sáo sau khi dâng vua thì chính người viết ra nó cũng quên nó luôn.

Có thể chứng minh sự kém cỏi của nền giáo dục cổ ở một khía cạnh khác. Nhân xem xét danh sách các tác gia văn học VN bằng con mắt thống kê, người ta đã phát hiện ra một nghịch lý vui vui.

Đó là nhiều nhà văn nhà thơ VN thời trước nổi tiếng mà không có tác phẩm (đây là nói những tác phẩm dày dặn, có chất lượng đáng kể, được truyền tụng về sau và trở thành một đối tượng mô tả bắt buộc của các bộ từ điển).

Từ điển văn học Việt Nam do Lại Nguyên Ân biên soạn với sư cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường có 276 mục dành cho tác giả trong khi chỉ có 132 mục dành cho tác phẩm. Từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, tính đổ đồng, mỗi thế kỷ chỉ có 7 tác phẩm; riêng thế kỷ XIX khá hơn, có tới 68 tác phẩm được ghi vào từ điển, nhưng số tác giả cũng lớn hơn, tới 78 người.

Cái hiện tượng cây không trái này (đúng hơn, có thể là toàn những trái chua trái héo, không cần cho ai, đời sau không ai buồn nhớ) càng thấy rõ khi nhìn vào hàng ngũ các ông trạng - chúng tôi muốn nói tới trạng chính thống chứ không phải trạng theo nghĩa dân gian.

Theo Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng về các ông trạng VN thì không kể triều Nguyễn không lấy trạng nguyên, các triều đại Lý Trần Lê có tới 47 người được phong trạng. Nhưng phần lớn họ không có tên trong danh sách các tác gia nổi tiếng ở nước ta.

Ngược lại, xét chung các nhà sáng tác thơ văn, từ Nguyễn Du tới Nguyễn Đình Chiểu, từ Nguyễn Gia Thiều Phạm Thái cho tới Tú Xương, nhiều người không thuộc loại đỗ đạt cao. Riêng về biên khảo, một học giả thực thụ như Phan Huy Chú, tác giả của bộ sách đồ sộ, mang tính cách tổng kết lớn, một thứ bách khoa toàn thư là Lịch triều hiến chương loại chí, chỉ đỗ đến tú tài.

Câu chuyện người đỗ không giỏi và người giỏi không đỗ không chỉ tố cáo sự kém cỏi của hệ thống giáo dục mà còn cho thấy một phần thực chất con người của nhiều ông trạng. Họ chính là điển hình của loại học trò thuộc bài, chỉ biết tầm chương trích cú rồi làm theo những khuôn mẫu sẵn có, nói chung là những cá tính tầm thường, không có quan hệ gì tới tư duy độc lập và sự sáng tạo.

Ta đã có tầng lớp tri thức đúng nghĩa?
Ta đã có tầng lớp tri thức đúng nghĩa chưa?
Bước vào giai đoạn hội nhập, gần đây, những cuộc bàn cãi xuất hiện đều đều trên mặt báo ở ta cho thấy vấn đề về giới trí thức đang là mối quan tâm chung của xã hội. Điều này có lý do chính đáng của nó. Sự trì trệ kéo dài hàng ngàn năm mà đến nay ta vẫn lĩnh đủ có một nguyên nhân sâu xa: cộng đồng không hình thành nổi bộ phận tinh hoa (elite) của mình. Một chủ nghĩa bình quân tối đa đã níu kéo tất cả lại.

Tôi muốn đặt vấn đề: liệu trong thực tế lịch sử chúng ta đã có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa chưa? Nếu tạm thời chấp nhận là có một tầng lớp như vậy, thì quá trình hình thành của họ có đặc điểm gì? Tại sao họ dễ bị làm hỏng đến vậy? Trước 1945, những Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh,  Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, các tác giả có bài thường xuyên trên Tri Tân Thanh Nghị… đã có ý kiến về vấn đề này mà chưa ai có dịp tổng kết.

Tuy không nói ra, nhưng có vẻ như với nhiều người, kẻ sĩ Việt Nam chỉ là một loại trí thức chân đất. Một số nhà nghiên cứu gần đây đôi khi còn đi tới những khái quát cực đoan hơn. Trong một bài viết mang tên Tâm lý dân tộc với cuộc Cải cách hành chính hiện nay nhà xã hội học lão thành Đỗ Thái Đồng cho rằng xã hội cổ truyền VN  thiếu ba chỗ dựa cơ bản:
- Không có giai cấp quý tộc trong khi có đông đảo đám quan lại nhất thời.
- Không có tầng lớp trí thức để có được các trào lưu học thuật tư tưởng riêng. Rất hiếm thấy cái cốt cách như Lý Bạch“ Thiên tử hô lai bất thượng thuyền”. Học để làm quan, tuyệt đại đa số kẻ sĩ đều mộng làm quan hơn là giữ vai trò thầy đồ… áo rách.
- Không có lớp doanh nhân tung hoành về thương mại hay công nghệ trong nước cũng như ngoài nước.

Trong ba đặc điểm tôi cho là được nêu ra chính xác này, cái thứ hai liên quan đến chủ đề trí thức chúng ta đang nói.

Thói háo danh chẳng qua chỉ là dấu hiệu của một tầng lớp trí thức non yếu. Còn mọi thái độ dễ dãi với họ chiều nịnh họ mà không dám yêu cầu cao ở họ cuối cùng chỉ đẩy họ sa đà mãi trong tình trạng bần cùng về trí tuệ và nẩy sinh những căn bệnh mới.

Cũng nên nói thêm, sự dễ dãi này ban đầu có vẻ là một thiện ý hoặc nói như chữ nghĩa thời nay – một sự chia sẻ, nó bắt đầu từ một cảm nhận chung về sức ép của hoàn cảnh.

Nó là cách nghĩ từng ngự trị trong xã hội một thời gian dài. Đất nước lo gồng mình lên để chống ngoại xâm. Cuộc sống khó khăn đến nỗi, khi nghĩ về nhau người ta chỉ thấy những điều tốt đẹp, cốt sao giữ lấy cho nhau niềm tự tin, rồi động viên nhau hợp sức trong việc chống trọi lại các thế lực thù địch từ bên ngoài tới. Tức nó là sản phẩm của những thời đại mà mọi nỗ lực của con người là lo tồn tại, tới mức có thể bảo nền văn hóa của chúng ta là văn hóa để tồn tại.

Còn nếu như đặt vấn đề tồn tại chỉ là chuyện tối thiểu, cái đáng lo hơn, như hôm nay, là chuyện phát triển, chúng ta sẽ phải nghĩ khác về quá khứ và luôn thể nhìn lại khác đi về nhau.

Nay là lúc mọi sự vuốt ve nhau dễ dãi, là không đủ nữa. Công cuộc phát triển đòi hỏi đất nước phải có một tầng lớp trí thức ngang tầm quốc tế và khu vực, ở đó không thể có sự nửa vời, sự tự hạ thấp tiêu chuẩn để làm dáng.


  Vương Trí Nhàn
  Ghi chú:

(1) Roger Gal Lịch sử giáo dục, bản dịch Lê Thanh Hoàng Dân-- Trần Hữu Đức. NXB Trẻ-- Sài gòn, 1971
(2) Dẫn theo Đại Việt sử ký toàn thư của nhà xuất bản Khoa học xã hội 1983, tập II tr 296 (5) Nguyễn An Ninh Tính chất lưỡng phân, một nét đặc thù của trí thức Việt nam trong lịch sử Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật 1998, số 1
Chú ý xin đừng lầm với Nguyễn An Ninh (1900-1943), nhà hoạt động xã hội ở đầu thế kỷ XX. Có điều thú vị là nhà trí thức lớn Nguyễn An Ninh trước đây cũng từng nhận xét xứ ta là nơi mà “chỉ với một chút xíu khoa học” người ta đã có thể tự coi mình là nhà thông thái, tương tự như “với hai xu trong túi, người ta đã trở thành những nhà giàu.” Khi lưu ý tình trạng nhiều người “cảm thấy thỏa mãn vừa lòng khi chui rúc trong một túp lều”, hình như ông muốn nói rằng tình trạng thiếu khát vọng và ý chí đã kìm giữ mãi chúng ta trong khung cảnh lạc hậu. 

Đọc thêm!

Thói háo danh và vĩ cuồng của trí thức

Thói háo danh và căn bệnh vĩ cuồng, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu nhiều người đã mắc, tới nay trong hoàn cảnh chớm hội nhậpvới thế giới, bệnh lại trầm trọng hơn trong một bộ phận trí thức.

Trí thức là một thành phần quan trọng, đóng vai trò định hình tư tưởng, dẫn dắt xã hội. Tuy vậy, theo nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, không phải toàn bộ nhưng ít nhất một bộ phận trong số họ có những nhược điểm cố hữu. Xin giới thiệu một số bài viết của ông về chủ đề này với mục đích tự nhìn lại mình, phản tư để thấu hiểu và thay đổi chính mình


Nhìn người bằng... chức danh


Nửa cuối thế kỷ thứ XVII, có một trí thức Trung Quốc là Chu Thuấn Thuỷ trên  bước đường chống Thanh phục Minh nhiều lần đến Việt Nam. Lần ấy, khoảng 1657, nghe Chúa Nguyễn có hịch chiêu mộ những ai biết chữ để giúp vào việc nước, Chu ra trình diện. Nhưng ông cảm thấy chung quanh không hiểu mình, không thi thố được tài năng, lại bị làm phiền, nên bỏ sang Nhật. Sau ông đóng góp rất nhiều vào viêc phát triển xã hội Nhật.

Chu không phải là loại người đọc sách xa lánh sự đời. Một học giả Nhật đã viết về Chu “Cái học của  tiên sinh nhấn mạnh về "kinh bang tế thế". Giả sử nếu cần biến một vùng đất hoang thành phố thị, phải tập hợp sĩ nông công thương, thì một tay tiên sinh có thể cáng đáng để xây dựng nên phố thị. Thay vì “ thi thư lễ nhạc” tiên sinh thích nghiên cứu và tìm hiểu sâu sắc về cách canh tác ruộng nương và cách xây dựng nhà cửa, cách làm rượu làm tương... Tiên sinh có thể dạy người ta bất cứ việc gì” .(1)
Riêng chuyện bộ máy chính quyền Đàng Trong không thể chấp nhận một người như trên, đủ cho ta hiểu trình độ của bộ máy đó là như thế nào.

Trong tập ký sự của mình, Chu Thuấn Thuỷ kể khi trình diện nhà cầm quyền địa phương, gặp chuyện buồn cười là người Việt Đàng Trong bắt ông ứng khấu ngay một bài thơ rồi viết trên giấy. Tiếp đó câu đầu tiên bị hỏi là “Cống  sĩ với cử nhân và tiến sĩ, bên nào hơn ?“.

Khi biết Chu chỉ là cống sĩ, viên quan địa phương có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình.

Từ câu chuyện về Chu Thuấn Thuỷ tới câu chuỵên về nghệ sĩ Nga Vladimir Ashkennazy mà Đặng Hữu Phúc vừa kể, như là có sự nối tiếp. Hoặc có thể nói cả hai phối hợp với nhau làm nên một đôi câu đối khá chỉnh. Một bên thì không thể hiểu người nổi tiếng lại không có một chức danh nào, còn bên kia thì không cần biết trước mặt mình là người đã được hoàng đế nhà Minh mời ra giúp nước, chỉ nghe cái bằng cống sĩ đã bĩu môi chê bai - giữa  người ngày xưa với người ngày nay, sao mà có sự ăn ý  đến thế!

Từ háo danh tới vĩ cuồng
Đặng Hữu Phúc đã nói tới cái khó chịu khi phải nghe đám người “mở miệng là họ nói tới chức tước “ - tức đám người háo danh - trò chuyện với nhau. Ai đã sống trong giới trí thức ở ta hẳn thấy chuyện đó chẳng có gì xa lạ.

Anh A và anh B vốn cùng nghề và cùng cơ quan, họ cùng dự buổi họp nhỏ, chứ không phải đăng đàn diễn thuyết trước bàn dân thiên hạ gì.

Thế mà cứ động phát biểu  thì từ miệng anh A, vang lên nào là  “như giáo sư B đã nói” (gọi đầy đủ cả tên họ),  nào là “tôi hoàn toàn đồng tình với các luận điểm giáo sư B. vừa trình bày“ (Thực ra có luận điểm khoa học gì đâu mà chỉ là mấy nhận xét vụn). Và B cũng đáp lại bằng cách nói tương tự.

Khi phải dự những cuộc hội thảo ở đó cách xưng hô và nói năng giữa các thành viên theo kiểu như thế này, tôi chỉ có cách ráng chịu một lúc rồi lảng. Tôi không sao nhớ nổi họ nói với nhau điều gì. Và tôi đoán họ cũng vậy. Vì mỗi người trong họ có vẻ còn mải để ý xem người phát biểu đã gọi người khác đúng chức danh chưa, hay để sót, chứ đâu có chú ý tới nội dung các phát biểu. Không khí nhang nhác như những buổi họp quan viên trong các làng xóm xưa, mà Ngô Tất Tố hay Nam Cao đã tả.

Tại sao chúng ta khó chịu với lớp người háo danh này? Đơn giản lắm, ta thấy họ ấu trĩ, non dại, thực chất họ thấp hơn cái vị thế mà họ chiếm được, không xứng với chức danh họ nhăm nhăm mang ra khoe.

Ai đã thử quan sát tình trạng tinh thần của đám người mê tín hẳn biết, người càng thiếu lòng tin, thì khi vào cuộc mê tín càng cuồng nhiệt.   
Giới trí thức cũng vậy, cái sự thích kêu cho to chẳng qua là một cách để xoá bỏ mặc cảm. Kẻ yếu bóng vía lấy cái mã bên ngoài để làm dáng che đậy cho sự trống rỗng bên trong.

Mấy thói xấu mà Đặng Hữu Phúc nêu lên chỉ đáng để người ta cười giễu, ghét bỏ, thương hại. Song ác một nỗi chính nó lại là dấu hiệu đầu tiên của nhiều chứng nan y khác chẳng hạn căn bệnh mà Cao Xuân Hạo trong một bài viết ở cuốn Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ (2) gọi là bệnh vĩ cuồng ( me’ganomanie).

Cao Xuân Hạo kể một chuyện mà thoạt nghe chắc chẳng ai dám tin. Hàng năm cơ quan lưu trữ nước mình thường phải thanh lý hàng tấn những hồ sơ “sáng kiến phát minh“ gồm toàn đề nghị viển vông do người trong nước ùn ùn gửi tới. Cao Xuân Hạo nói thêm điều đáng lo là ở chỗ phần đông chúng ta khi nghe những điều quái gở ở đây đều thấy bình thường, cùng lắm thì là loại sai lầm dễ tha thứ; còn ai tỏ ý kinh hoàng thì bị mọi người coi là bệnh hoạn vô đạo đức vì đã không tin vào khả năng sáng tạo của những người bình thường.      

Cần phải gộp cả thói háo danh và bệnh vĩ cuồng nói trên để phân tích vì giữa chúng có một điểm chung là đều xuất phát từ những người và nhóm người sống trong tình trạng cô lập, không có khả năng tự nhận thức, đứng ngoài nhịp phát triển tự nhiên của thế giới.

Tình hình lại cần được xem là tệ hại bởi nó bám rễ vào bộ phận tinh hoa của xã hội.

Trí thức là bộ phận mũi nhọn của một cộng đồng, của những thể nghiệm làm người của cộng đồng đó. Những nhược điểm của trí thức chẳng qua chỉ là phóng to nhược điểm của cộng đồng. Và nếu như những nhược điểm này đã thâm căn cố, đế trở thành một sự tha hoá, thì tình trạng của người trí thức sẽ là một phòng thí nghiệm hợp lý để nghiên cứu về tình trạng tha hoá nói chung. Phải nghiên cứu kỹ lưỡng thì may ra mới có cơ hội chữa chạy hay ít nhiều cũng giảm thiểu tình hình nguy hại.

Vương Trí Nhàn
Ghi chú:
 
 (1) Chu Thuấn Thuỷ Ký sự đến Việt Nam năm 1657 (An Nam cung dịch kỷ sự), Vĩnh Sính dịch và chú thích, Hội khoa học lịch sử Việt Nam 1999, tr.11
 (2)  Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc -- Tâm lý Người Việt nam nhìn từ nhiều góc độ, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh,2000, tr.82-87

Đọc thêm!

Thứ Năm, 20 tháng 10, 2011

Vì sao Steve Jobs có ý nghĩa với cả thế giới?

Có thể không ai mong muốn trở thành một Steve Jobs thứ hai khi lắng nghe những kinh nghiệm quý giá trong sự nghiệp của ông. Nhưng có lẽ những kinh nghiệm ấy chính là tài sản lớn nhất mà ông để lại, mở đầu cho một thế hế những nhà lãnh đạo mới luôn nghĩ tới những mục tiêu lớn hơn những gì mình đang đạt được.

Bài viết này đã được tác giả Bill Taylor viết sau khi Steve Jobs từ chức CEO của Apple vào tháng 8. Tuy nhiên, sau cái chết của nhà lãnh đạo tài ba này, chúng tôi cho rằng bài viết này vẫn có giá trị để chúng ta đọc lại một lần nữa.

Tất cả chúng ta chằng từng đều thắc mắc vai trò của Steve Job đối với Apple là gì. Việc vị CEO tài ba này rời khỏi Apple, sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến tương lai của công ty? Tới giá trị cổ phiếu của Apple? Hay mở rộng ra, Steve Jobs, việc ông rời khỏi vị trí CEO của Apple (và giờ đây là việc ông qua đời), còn ảnh hưởng đến ngành công nghiệp máy tính, âm nhạc, và truyền thông như thế nào?
Là người vạch kế hoạch và đưa ra những sản phẩm bom tấn của Apple, Steve Jobs được nhớ tới với tư cách là người cách mạng hóa cách mà chúng ta liên lạc, giao thiệp với nhau hiện nay.
Rất ít người trong số chúng ta có thể thành công bằng 1/100 những gì Steve Jobs đã từng gặt hái được. Có thể nói, trong vài trò người lãnh đạo, ông luôn xứng đáng nhận sự tôn trọng, ngưỡng mộ và tình cảm  mà không một nhân vật nào trong lĩnh vực công nghệ nào có được. Cho dù ông có kết thúc sự nghiệp của mình, thì những thành quả mà ông để lại vẫn luôn xứng đáng được ghi nhớ.
Nếu bạn muốn gặt hái được những thành công tương tự Steve Jobs, hãy tự hỏi mình 5 câu hỏi đơn giản, nhưng lại mang ý nghĩa quyết định đối với một lãnh đạo cao cấp.

1. Tại sao những người có năng lực muốn làm việc cùng bạn?
Steve Jobs luôn được vây quanh bởi những nhà thiết kế thiên tài, các nhà bán lẻ, các kỹ sư tài  năng, bởi ông hiểu rằng những người tài năng nhất không bị cuốn hút bởi tiền bạc hay danh vọng. Họ luôn muốn thực hiện những dự án thú vị, muốn tạo ra những tác động mạnh mẽ.
Nói một cách đơn giản, những người tài giỏi muốn trở thành một phần của thứ nào đó còn vĩ đại hơn mình - cũng giống như câu nói Jobs thường dùng "cực kỳ tuyệt vời".
2. Bạn có nhận ra ai là người tài giỏi khi bạn gặp họ không?
Lãnh đạo một đội ngũ những người tài giỏi và phù hợp luôn khiến công việc dễ dàng hơn rất nhiều. Thật vậy, những nơi làm việc có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc tổ chức là tương đồng: tìm kiếm càng nhiều người tài năng càng tốt. Vậy làm thế nào để tìm những người tài giỏi như vậy để cống hiến cho bạn?
Steve Jobs luôn rất kỹ càng trong việc chọn lựa người làm việc trong Apple bởi ông hiểu rằng,  đây sẽ là nhân tố ảnh hường trực tiếp tới các tính năng trong sản phẩm của hãng.
3. Bạn có thể tìm ra những người tài giỏi cho dù họ không quan tâm đến bạn?
Đó là vấn đề quan trọng nhưng lại thường bị lãng quên: Những người tài giỏi nhất luôn muốn tìm được công việc họ yêu thích, làm việc với những người họ quý mến, trong những dự án đem lại nhiều thử thách. Vậy lãnh đạo là người phải tìm cách để lấp đầy nhân viên trong công ty bằng những con người năng động như vậy. Những người này có thể không nằm trong công ty của bạn, hay họ thuộc những bộ phận khác nhau của công ty, nhưng họ sẽ không làm việc  cho bạn trừ khi bạn chăm chỉ thuyết phục họ tham gia.
Tính cách đặc trưng của Steve Job đã biến ông thành một nhà tuyển dụng tài ba chưa từng có.
4. Bạn có thể chỉ cho những con người tài giỏi cách để làm việc theo nhóm và đưa công ty đến thành công?
Ngay cả đối với các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên ngành như lập trình phần mềm, thiết kế đồ họa,... cũng cần phải có kiến thức về kinh doanh và cách mà doanh nghiệp hoạt động như thế nào. Điều này không chỉ vấn đề chia sẻ báo cáo tài chính, mà ta còn cần phải đặt ra câu hỏi: Liệu những lãnh đạo tài giỏi có thể khiến cho nhân viên của mình thành thạo hơn về kinh doanh? Liệu mọi người có hiểu chuyện gì đang thực sự diễn ra, điều gì không thể thương lượng, điều gì làm nên thành công hay thất bại của công ty?
Không ai có thể giỏi hơn Steve Jobs trong việc nhắc nhở nhân viên về nhiệm vụ kinh doanh của công ty.
5. Bạn có nghiêm khắc với chính mình khi bạn ở vị trí cao hơn người khác?
Tất cả những người trẻ tuổi tài năng và đầy tham vọng luôn kỳ vọng cao vào bản thân, vào đồng nghiệp và vào cả  công ty mà mình đang làm việc. Đó là lý do họ luôn tỏ ra nghiêm khắc khi đánh giá lãnh đạo của mình. Vì vậy, thách thức lớn nhất của các lãnh đạo đó là chia sẻ sự kỳ vọng đó.
Steve Jobs là một ông chủ nổi tiếng là khó tính và đòi hỏi cao. Nhưng tính cách đó của ông lại tỏ ra phù hợp đến mức hoàn hảo với các cộng sự bởi ông cũng tỏ ra nghiêm khắc với bản thân giống như với từng nhân viên của mình.
Có thể bạn không có mong muốn trở thành một Steve Jobs thứ hai khi lắng nghe những kinh nghiệm quý giá trong sự nghiệp của ông. Nhưng có lẽ những kinh nghiệm đấy chính là tài sản lớn nhất mà ông để lại, mở đầu cho một thế hế những nhà lãnh đạo mới luôn nghĩ tới những mục tiêu lớn hơn những gì mình đang đạt được.
Một số bức ảnh lịch sử ghi lại con đường thành công của con người có tầm nhìn vĩ đại này:


Những ngày đầu: Steve Jobs giới thiệu máy tính Apple II tại Cupertino, California in 1977


Steve Jobs và người đồng sáng lập Apple là Steve Wozniak trong những ngày đầu của Apple


Từ trái sang phải là Steve Jobs, cựu CEO Apple John Sculley và người đồng sáng lập Apple Steve Wozniak khi tiết lộ máy tính mới Apple II ở San Francisco (24/4/1984)


Jobs chụp ảnh với máy tính Mac năm 1998


Jobs giới thiệu máy tính mới Power Mac G4 trong bài phát biểu then chốt ở San Francisco ngày 31/8/1999


Jobs với chiếc máy tính bảng mới IPad ngày 27/1/2010


Người đồng sáng lập Apple Steve Jobs tại buổi lễ giới thiệu iPad 2 tại San Francisco, California hôm 2/3/2011.
QUỐC DŨNG (THEO HBR)

Đọc thêm!

Thứ Ba, 18 tháng 10, 2011

Tại sao phải gồng mình với "công nghiệp hiện đại"?

Nửa thế kỷ trước đã có đường lối "biến nước ta thành nước có nền công nghiệp hiện đại"... nhưng đến nay mới chỉ là "tạo nền tảng"... "để cơ bản"... "theo hướng hiện đại". Tại sao cứ phải đi con đường mà càng đi càng hun hút, càng trong thế rượt đuổi với tiến bộ của công nghiệp thế giới?

Mục tiêu tổng quát tới năm 2015 là "tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại" sao mà vòng vo tam quốc. "Tạo nền tảng", nôm na chỉ là làm móng. Mức nào được xem là "cơ bản". Sao không khẳng định là "hiện đại" mà chỉ là "theo hướng hiện đại"

"Hiện đại" theo tiêu chí nào, sánh với ai (?), các nước G8, các nền kinh tế mới nổi hay các con rồng châu Á. Còn so với chính mình khi nào chả tiến thêm một bước.
Mưu sự bất thành
Vào những năm 60 của thế kỷ trước, thực hiện đường lối "biến nước ta thành nước công nghiệp hiện đại..." , đã có chủ trương "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý... ". Thực hiện chủ trương đó, được viện trợ của Liên Xô, ta đã xây dựng tại Hà Nội Nhà máy Cơ khí Trung quy mô. Rồi với sự giúp đỡ của Trung Quốc, ta lại có nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà cũng tại Hà Nội.
Lần lượt các địa phương cũng mọc lên hết nhà máy này đến công xưởng nọ, với điểm nhấn là nhà máy cơ khí. Song số phận của những "tượng đài" đó thế nào ai cũng rõ.
Trước vận hội mới, từ 1990 đã đề ra chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong 10 năm (1991-2000) rồi (2001 -2010). Qua 20 năm, đã đạt nhiều thành tựu, nhưng việc tạo "nền tảng của nền công nghiệp theo hướng hiện đại" thì chưa, mà với mục tiêu trên đã tự thừa nhận điều đó.

Công nghiệp nặng chủ yếu là khai khoáng thô, gia công, lắp ráp bằng máy móc với quy trình đơn giản, lạc hậu, thải loại. Công nghệ chính xác, tinh vi là thứ xa xỉ. Khu công nghệ cao Hoà lạc dóng dả khoanh vùng từ lâu, nay mới có 689/1.432 ha cần giải phóng mặt bằng. Công nghiệp phụ trợ mới mạnh ở quyết tâm. Chiếc kim khâu, lưỡi dao cạo râu, khuy bấm, bấm móng tay..., phải rước từ bên ngoài. Hứa hẹn thành cường quốc đóng tầu mà que hàn cũng phải nhập.
Công nghiệp nhẹ sản xuất ra hàng tiêu dùng cũng chỉ cho ra những sản phẩm thường thường bậc trung. Sản phẩm công nghiệp hàng đầu của đô thành bậc nhất chỉ là màn tuyn và bóng đèn - phích nước.
Trong số 63 tỉnh, thành phố chỉ vài địa phương trong hạ quyết tâm trong  nhiệm kỳ tới sẽ "cơ bản có công nghiệp hiện đại".
Nhưng điều bao trùm cả nền công nghiệp nước ta qua ngần ấy năm mà vẫn phụ thuộc, càng phụ thuộc thái quá vào bên ngoài. Thiết bị toàn bộ, dây chuyền sản xuất, máy móc đơn chiếc, phụ tùng thay thế, nguyên nhiên, vật liệu (kể cả rác phế liệu), sáng chế phát minh... hầu hết phải nhập khẩu.
Nhưng đáng tiếc là dù được trang bị như vậy, sản phẩm làm ra vẫn không thuyết phục được chính đồng bào ta, nhất là những hàng có giá trị cao và với lớp người lắm của nhiều tiền. Cơ man hàng công nghiệp nước ngoài giá "tiền nào của ấy" rải khắp nơi, mọi chốn. Hàng ngoại xịn, từ chiếc chảo chống dính đến ô tô khủng, ai chưa cập nhật thì đã có các phương tiện thông tin - truyền thông hào phóng quảng bá kịp thời trên sóng truyền hình, vào những giờ vàng. Bệnh xính dùng hàng ngoại trầm kha, lây lan là thế và phải vận động ta ưu tiên dùng hàng của ta cũng vì thế.
Đi tiếp vẫn khó
Để xây dựng một nền công nghiệp bình thường chí ít cần đến 5 yếu tố:
- Vốn lớn
- Nguồn năng lượng dồi dào
- Cơ sở hạ tầng phát triển
- Trình độ công nghệ cao
- Nguồn lực con người giỏi.
Với một nền công nghiệp hiện đại, từng yếu tố đều phải nâng cấp. Đối chiếu với hiện trạng của ta  yếu tố nào cũng bất cập.
1. Nguồn vốn tập trung tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân rất mỏng manh. Thu ngân sách chủ yếu dựa vào thuế nhập khẩu và xuất khẩu dầu thô. Chi thì khoản nào cũng hoành tráng, mục tiêu nào cũng cấp bách, bội chi là phải. Lạm phát cao. Nhập siêu triền miên. Thâm hụt cán cân thành toán vãng lai cũng không kém cạnh. Đến hết năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDP, và dư nợ công bằng 56,7%, không biết đến mức nào mới hết chỉ giới an toàn. Chỉ riêng Vinashin đã "bổ" cho mỗi đầu người 1 triệu đồng tiền nợ.
Nước nghèo song vốn trong dân lại dồi dào. Vàng hàng nghìn tấn. Đô la nặng hầu bao. Có đại gia sẵn sàng bỏ vài trăm triệu đến bạc tỷ để có được một biển số xe đẹp. Nhưng tiền còn để lướt sóng trên sàn chứng khoán, nhảy múa tại chợ vàng, "tăm tia" quy hoạch để kinh doanh bất động sản, nhắm địa điểm "ngon" mở dịch vụ cao cấp, thu tiền tươi thóc thật, gửi nhà băng, mua nhà ở ngoại quốc. Ít ai mặn mà với công nghiệp hiện đại.
Năng suất lao động thấp, mới đạt 2.000 USD /người, bằng nửa Philippines, Indonesia, chưa bằng một phần ba Thái Lan, gần một phần mười Malaysia, gần một phần ba mươi Singapore.
Qua hơn 20 năm, để có "vé vào cửa", nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cam kết rõ nhiều, nhưng thực làm thật ít, có năm rất ít.
* 10 năm (1991-2000), đăng ký 43,9 tỷ USD, thực hiện 19 tỷ USD, tỷ lệ là 43%.
* Các số tương ứng của thời kỳ 2001 - 2010, là: 167 tỷ  - 58 tỷ USD - 34%.
* Trong đó năm 2008 đăng ký kỷ lục tới 71,7 tỷ USD nhưng chỉ thực hiện 11,5 tỷ USD, có 16%.
Tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp và xây dựng năm 2001 là 85%, năm 2009 chỉ còn 22%; khu vực dịch vụ - bất động sản từ 7% lên 77%. Chỉ thấy cao ốc sang trọng, khách sạn lắm sao, sân gôn nhiều lỗ, khu nghỉ dưỡng cao cấp... mọc lên như nấm. Lĩnh vực nông nghiệp bị phơt lờ, nếu năm 2001 chiếm 8% tổng số vốn đầu tư nước ngoài thì đến 2009 vẻn vẹn 1%.

2. Mải mê xuất khẩu than, trong khi than cho nội địa đang thiếu. Ngày phải nhập than không còn xa. Điện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, ngay cả cho thắp sáng. Chất lượng lưới điện xoàng, tỷ lệ tổn thất cao. Hiện cả nước còn 86 hồ thuỷ điện có công suất dưới 30 MW. Vận hành các công trình này đang gây lo lắng vì xả lũ làm ngập lụt nhiều vùng. Điện hạt nhân mới có chủ trương. Điệp khúc cắt điện vẫn còn réo rắt.
Nguồn quặng vốn chẳng dồi dào, nhưng nơi thì bị "quặng tặc" hoành hành, nghênh ngang tải qua biên giới, vùng thì gọi nước ngoài vào bóc cho nhanh, vì "về lý thuyết bùn đỏ vẫn an toàn".
Năng lượng tái tạo đang là xu hướng của thế giới trong bối cảnh các nguồn nhiên liệu hoá thạch đang cạn kiệt dần, nhưng hiện ở ta năng lượng tái tạo chỉ chiếm hơn 1% tổng mức năng lượng tiêu thụ và vẫn chỉ dừng ở... tiềm năng.
Nguồn nước sạch chưa được đầu tư thích đáng, quản lý khai thác đồng bộ. Hệ thống xử lý nước thải công nghiệp vừa thiếu, vừa kém chất lượng, Môi trường bị dồn vào chân tường. Công nghệ xử lý môi trường lạc hậu hoặc cho qua. Nhiều nhà máy đổ trực tiếp nước thải, bức tử các dòng sông.
3. Mật độ giao thông tính bình quân trên 1.000 dân thấp xa so với các nước xung quanh, chất lượng lại kém. Nạn kẹt xe ngày càng nan giải. Loại hình vận tải nào cũng bất cập về năng lực, về thông tin và quản lý dẫn đến chi phí vận tải cao. Đường mới nhiều, nhưng vừa cờ quạt khánh thành đã lộ ra những hố tử thần, cọc tiêu vỡ mới hở cốt tre.
4. Mặt bằng trình độ công nghệ của ta hiện chỉ tương đương với Trung Quốc vào những năm 80 của thế kỷ XX. Malaysia là những năm 70, Hàn Quốc là những năm 60, Nhật Bản là những năm 20.
Trên bản đồ công nghệ thế giới, Việt Nam vẫn là một điểm trũng.
5. Với nền đào tạo "thừa thầy, thiếu thợ"; bệnh bằng giả, thi hộ đã di căn; chế độ lương không ra lương, thưởng không đến nơi đến chốn; quản lý yếu; vận hành một một nền công nghiệp đặc trưng là gia công, lắp ráp, chuyên gia chẳng cần sáng chế, phát minh, công nhân chẳng thể có tay nghề  cao.
Tại sao cứ phải gồng mình "công nghiệp hiện đại"?
Nửa thế kỷ trước đã có đường lối "biến nước ta thành nước có nền công nghiệp hiện đại"... nhưng đến nay mới chỉ là "tạo nền tảng"... "để cơ bản"... "theo hướng hiện đại". Tại sao cứ phải đi con đường mà càng đi càng hun hút, càng trong thế rượt đuổi với tiến bộ của công nghiệp thế giới
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, phân công lao động quốc tế đã đến từng ngõ ngách của đời sống kinh tế của mọi quốc gia và vùng lãnh thổ, có nhất thiết nền kinh tế nào cũng phải có công nghiệp hiện đại, nhất là ở mặt bằng thấp như nước ta. (!).
Khá nhiều nước, vùng lãnh thổ khai thác lợi thế so sánh của mình về vị trí địa lý, bề dày lịch sử, cảnh quan thiên nhiên, biệt tài của nguồn nhân lực và biết lượng sức mình, không đi theo con đường công nghiệp hoá mà phát triển các ngành khác đặc biệt là thương mại - dịch vụ - du lịch..., thực sự đã trở thành nền kinh tế mạnh, thu nhập quốc dân theo đầu người cao, thế giới phải ngưỡng mộ.
Lúc đó muốn họ sự dụng bất cứ thành quả tân tiến nhất của công nghiệp thế giới để hiện đại hoá đất nước cũng không muộn.
Việt Nam tuy chậm phát triển, nhưng tiềm năng về bờ biển, hải đảo, về nông nghiệp trù phú với gạo, cà phê, hạt tiêu, điều đứng thứ hạng rất cao trên thế giới; về các di sản nguyên sơ thiên nhiên ban tặng, về bề dày lịch sử... nhiều nước ao ước.
Như vậy có thể chấp nhận thế đôi công, quan hệ có đi có lại: chủ động chấp nhận phụ thuộc vào công nghệ của thế giới, nước ta thành thị trường cạnh tranh của mọi nền công nghệ; ngược lại buộc thế giới phải mua gạo, ăn cá, uống cà phê Việt Nam, phải sử dụng dịch vụ cảng biển Việt Nam trên đường hàng hải quốc tế, phải tới Việt Nam để thưởng ngoạn cảnh trí thiên nhiên trời phú...
Làm được như vậy, nông dân không bị tiếp tục mất ruộng; có đất, có tiền làm bệnh viện, xây trường học; tài nguyên không bị tiếp tục bị bòn rút, môi trường bình yên cho những cánh cò bay lả sớm chiều.

Đọc thêm!