Trang

Chủ Nhật, 2 tháng 1, 2011

Nguyên Chủ tịch Quốc hội bàn về phương thức cầm quyền của Đảng

"Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, dân làm chủ là cơ chế gồm ba chủ thể có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng, không ai làm thay ai, không ai quyết thay ai. Nếu Đảng làm thay, quyết thay thì Nhà nước và dân sẽ trở thành hình thức, hữu danh vô thực, người ta sẽ có cảm giác Đảng là vua. Không phải là một ông vua như thời phong kiến mà là vua tập thể thời CH XHCN".

LTSTheo ông Nguyễn Văn An, nguyên Ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch Quốc hội và Trưởng ban tổ chức Trung ương: "Dân chủ trong Đảng gắn với dân chủ trong Dân, trong Xã hội sẽ tạo ra sự đồng thuận, ý Đảng lòng Dân sẽ là một. Dân chủ có lãnh đạo đúng đắn, không ai làm thay ai đó chính là cội nguồn sức mạnh cho dân tộc, là sự sống còn của Đảng và chế độ". Đây cũng là nội dung chính trong bài viết ông vừa gửi tới Tuần Việt Nam với tựa đề: Bàn về tính Dân tộc và Dân chủ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam. Những nội dung chính trong bài viết này đã được ông Nguyễn Văn An chia sẻ tại lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hồi trung tuần tháng 11.
Ông bộc bạch: góc nhìn của ông trong bài viết này, đôi chỗ có thể "khó nghe" hoặc cần phải tranh luận thêm, nhưng vì trách nhiệm đảng viên, trách nhiệm công dân, ông cứ mạnh dạn đưa ra như một sự xới xáo trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, tôn trọng những ý kiến khác biệt mà đảng luôn kêu gọi.  
Tính dân chủ của MT DTTN Việt Nam còn rất yếu so với tính dân tộc
Dân chủ là mục tiêu nền tảng, là quốc hiệu của Việt Nam: "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", song tính dân chủ còn yếu hơn rất nhiều so với tính dân tộc.
Năm 1945, khi còn nhỏ, tôi đã hát khản cổ câu hát "Tiến lên nền dân chủ cộng hoà" trong bài hát "Diệt phát xít" của ông Nguyễn Đình Thi. Cũng như nhiều người, hồi đó tôi chưa hiểu về khái niệm thế nào là nền dân chủ cộng hoà, mặc dù đó là quốc hiệu của chúng ta.
Nhiều ý kiến cho rằng Mặt trận Dân tộc Thống nhất nước ta có hai tính chất cơ bản là tính dân tộc và tính dân chủ. Trong đó, tính dân tộc xuyên suốt, nổi trội và trở thành một đặc trưng cơ bản của Mặt trận, nó là truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc Việt Nam ta đã được rèn luyện trong đấu tranh chống địch họa và thiên tai. Thế còn tính dân chủ thì sao? Nó còn quá mới mẻ với Việt Nam? Có lẽ đây là ý kiến cần được xem xét, nghiên cứu nghiêm túc, vì nó mang ý nghĩa sâu sắc, quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Để làm rõ vấn đề này, hãy trả lời câu hỏi: Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng gì? Ai cũng có thể trả lời dễ dàng: Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nên Mặt trận phải có cả hai tính chất vừa là dân tộc, vừa là dân chủ. Đương nhiên Đảng ta cũng có cả hai tính chất đó và Nhà nước ta cũng không thể thiếu hai tính chất này.
Nếu xem xét tính dân tộc và tính dân chủ ở cả hai giai đoạn Cách mạng dân tộc dân chủ và Cách mạng XHCN thì chúng ta dễ nhận thấy rằng, tính dân tộc ở cả hai giai đoạn đó đều nổi trội hơn tính dân chủ. Tính dân chủ ở Việt Nam còn mới mẻ vì dân tộc ta bị sống trong đêm dài phong kiến, nô lệ quá lâu so với nhiều nước ở phương Tây.
"Dân quyết" là thực chất của tính Dân chủ.
Khi chuyển lên hình thái Cách mạng XHCN, cũng có ý kiến băn khoăn cho rằng chúng ta có hơi vội quá chăng? Vì Cách mạng dân tộc dân chủ của ta chưa hoàn thành cơ bản, mới làm được cách mạng dân tộc, còn cách mạng dân chủ thì vừa bắt đầu. Điều đó có nghĩa, trong giai đoạn cách mạng XHCN tới đây, cần làm sao cho tính dân chủ cũng trở thành nổi trội, xuyên suốt, dần trở thành chủ đạo và truyền thống như tính dân tộc. Làm được như vậy thì thành quả của cách mạng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sẽ được giữ vững.
Phải chăng, Cách mạng XHCN chính là cách mạng dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ thực sự cho dân, có thêm tính từ XHCN cũng nhằm làm rõ cuộc cách mạng của chúng ta dân chủ thực sự chứ không phải dân chủ giả hiệu. Tính dân chủ càng sâu rộng thì tính dân tộc càng được nâng cao. Hai tính chất này trong mỗi giai đoạn có khác nhau, nhưng ở giai đoạn phát triển XHCN chúng ta phải nâng cả tính dân tộc và cả tính dân chủ lên rất nhiều. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực, song dân chủ phải là mục tiêu nền tảng. Mệnh đề công bằng - văn minh phải trên nền tảng dân chủ cộng hoà; tự do, hạnh phúc cũng phải trên nền tảng dân chủ cộng hoà. Không có dân chủ thì không có công bằng, văn minh, không có tự do, hạnh phúc đích thực đối với mỗi người dân.
"Dân quyết" là thực chất của tính Dân chủ
Cách đây bốn năm, trong bài viết "Dân làm chủ", "Đảng lãnh đạo" tôi đã đề cập đến vấn đề "dân quyết". Dân làm chủ thì dân phải quyết, quyết trực tiếp và quyết gián tiếp thông qua cơ quan đại diện. Song về bản chất là dân quyết chứ không phải vua quyết, cũng không phải đảng quyết. Đảng lãnh đạo, dân quyết. Hồi đó, đồng chí Phạm Thế Duyệt, nguyên Chủ tịch UBTƯ MTTQ VN cũng đồng ý với quan điểm của tôi. Đồng chí đã phát biểu công khai trong một phiên họp toàn thể của Quốc hội. Đại ý: Dân là chủ thì dân phải quyết, tất nhiên không phải là cái gì dân cũng quyết mà phải quyết theo pháp luật. Dân làm chủ trực tiếp thường là những vấn đề lớn của quốc gia, còn lại dân làm chủ gián tiếp thông qua cơ quan đại diện và thông qua cơ quan Nhà nước do cơ quan đại diện bầu cử ra.
Đảng quyết theo chức năng của cơ quan lãnh đạo, dân quyết theo chức năng của người làm chủ, còn nhà nước quyết theo chức năng của người quản lý. Ba chủ thể đó đều có quyền quyết, nhưng quyết theo chức năng của mình, không ai quyết thay ai. Vì nếu "hăng hái" quyết thay người khác thì người bị quyết thay sẽ trở thành bù nhìn, hữu danh vô thực. Trong một gia đình cũng vậy, người chủ của gia đình mà không có quyền quyết định công việc của gia đình mình mà lại do người khác quyết, thì người chủ gia đình đó chỉ là bù nhìn, không phải chủ đích thực.
Đời sống chính trị ở nhiều nước phân vai rất mạch lạc. Như ở Anh, trước khi quyết định chọn sử dụng đồng Euro, Thủ tướng phải đưa ra trưng cầu dân ý để dân phúc quyết. Dân Anh không chịu dùng Euro và Thủ tướng buộc phải theo. Pháp cũng vậy, khi Tổng thống Pháp trưng cầu dân ý về dự thảo Hiến pháp liên minh châu Âu, dân Pháp trả lời không tán thành, và đương nhiên Tổng thống phải chấp hành theo ý dân.
Quyền lực Nhà nước thống nhất ở nơi Dân là bản chất của nhà nước dân chủ
Khi nhận trọng trách Chủ tịch QH, tôi từng hỏi ý kiến của nhiều vị gần gũi và có trọng trách rằng: Quyền lực nhà  nước "thống nhất" ở đâu? Ý kiến trả lời là rất khác nhau. Người thì bảo thống nhất ở Đảng, người thì bảo thống nhất ở QH, người khác lại nói thống nhất ở nơi dân.
Theo tôi, quyền lực Nhà nước là của dân, là thống nhất ở nơi dân chứ không phải thống nhất ở QH, cũng không phải thống nhất ở Đảng (nhưng mà thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở Hiến pháp và pháp luật).
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, dân làm chủ là cơ chế gồm ba chủ thể có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng, không ai làm thay ai, không ai quyết thay ai. Nếu Đảng làm thay, quyết thay thì Nhà nước và dân sẽ trở thành hình thức, hữu danh vô thực, người ta có cảm giác Đảng là vua. Không phải là một ông vua như thời phong kiến mà là vua tập thể thời CH XHCN. Nếu vậy thì còn gì là dân chủ nữa mà là Đảng chủ, là Đảng bao biện, làm thay. Và như vậy là mất dân chủ. Dân chủ thì quyền lực nhà nước phải thống nhất ở nơi dân.
Phải có Luật về Đảng để khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay và buông lỏng lãnh đạo để đảm bảo tính dân chủ được thực hiện trong thực tiễn
Trong dự thảo báo cáo chính trị trình đại hội lần thứ XI của Đảng cũng có đề cập đến vấn đề bao biện làm thay, buông lỏng lãnh đạo. Khi chúng ta nói bao biện làm thay thì thấy nó nhẹ nhàng, nó đã trở thành thói quen và thậm chí có người nói rằng nó là chai lì, nó trở thành đương nhiên, nó đã trở thành bình thường rồi. Nhưng khi hỏi rằng bao biện và làm thay là đúng hay sai so với Hiến pháp, so với Pháp luật, so với Cương lĩnh, so với Điều lệ thì nó lại là vấn đề lớn. Mà muốn khắc phục, không cách gì khác cần phải có Luật về Đảng. Đảng sẽ hoạt động theo luật về đảng, sẽ khắc phục được cả tình trạng bao biện làm thay, cả tình trạng buông lỏng lãnh đạo, đảng sẽ không vi phạm pháp luật và Điều lệ đảng nữa.
Đảng đã chính thức cầm quyền 65 năm, song cho đến giờ vẫn chưa có Luật về Đảng. Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể,... đều có luật do Quốc hội ban hành để điều chỉnh hành vi hoạt động, để nhân dân giám sát, để Nhà nước quản lý theo pháp luật.
Giai đoạn Đảng cầm quyền phải khác với giai đoạn Đảng còn đang đấu tranh hợp pháp và bất hợp pháp để giành chính quyền về tay nhân dân, vì khi đó chính quyền thực dân, phong kiến không cho phép đảng ta hoạt động hợp pháp, đặt đảng cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. Ngày nay, Đảng cầm quyền hợp hiến (trong Hiến pháp điều 4 đã ghi), càng cần phải có Luật để tránh bao biện, làm thay, buông lỏng lãnh đạo; và cũng để dân có cơ sở giám sát, xây dựng Đảng; để nhà nước có cơ sở kiểm soát các tổ chức và đảng viên, cán bộ của Đảng làm theo Hiến pháp và Pháp luật.
Xem lại phương thức cầm quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng để tránh bao biện làm thay và buông lỏng lãnh đạo
Trong Dự thảo văn kiện đảng trình Đại hội XI cũng có đề cập đến hiện tượng bao biện làm thay và buông lỏng lãnh đạo. Tôi cũng như các đồng chí khác đều cho rằng, để khắc chế hiện tượng này, không có cách gì khác ngoài việc phải có luật về đảng, đồng thời chúng ta phải xem xét lại phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng. Nếu người đứng đầu của Đảng ứng cử chức danh đứng đầu nhà nước ở các cấp sẽ khắc phục được hiện tượng bao biện làm thay và buông lỏng lãnh đạo.
Khác với hồi mới lập quốc, ngày nay các đồng chí Tổng bí thư và Bí thư cấp ủy không phải đảm nhiệm chức vụ gì của cơ quan hành pháp cùng cấp, nhưng mà quyền lực của các đồng chí đó thì lại rất lớn. Mô hình tổ chức tách biệt giữa người đứng đầu Đảng với người đứng đầu Nhà nước như vậy nên không ít trường hợp nảy sinh mâu thuẫn giữa đồng chí Bí thư với đồng chí Chủ tịch. Bởi vậy, mới có tình trạng nơi nào đồng chí Bí thư yếu thì hình như là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng quan niệm như vậy là chưa chính xác, vì đồng chí Chủ tịch cũng là Phó bí thư, cũng là người trong cấp ủy. Tại sao nói chỉ đồng chí Bí thư mới là người của Đảng, còn đồng chí Chủ tịch không phải là người của Đảng. Đây là quan hệ giữa hai cá nhân với nhau chứ không phải quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Cần phân biệt rất mạch lạc rằng: đây là mâu thuẫn giữa hai cá nhân mà do cơ chế của chúng ta tạo ra, do phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo tạo ra, chứ không thể nói là mâu thuẫn giữa Đảng với Nhà nước, hoặc nói Nhà nước coi thường sự lãnh đạo của Đảng.
Thực tiễn cho thấy, bao biện làm thay cũng như buông lỏng lãnh đạo là do phương thức cầm quyền, phương thức thức lãnh đạo tạo ra. Trên thế giới hình như cũng không có nước nào tách riêng người đứng đầu Đảng cầm quyền với người đứng đầu Nhà nước. Lúc mới lập quốc, Bác Hồ đã chọn mô hình thống nhất giữa người đứng đầu Đảng với người đứng đầu nhà nước. Lúc đó Bác là người đứng đầu Đảng (Đại hội II đã bầu Bác làm Chủ tịch Đảng) kiêm Chủ tịch nước. Đây cũng là mô hình phổ quát trong nhiều chính thể cộng hòa trên thế giới từ trước tới nay.
Vi Hiến mà coi là bình thường thì rất đáng phải báo động
Trong bài trò chuyện gần đây với Tuần Việt Nam, bàn về việc sửa đổi Hiến pháp sắp tới, tôi cũng đã đề cập vấn đề này. Người đứng đầu Đảng, Tổng bí thư hay Chủ tịch Đảng sẽ được dân lựa chọn làm người đứng đầu Nhà nước, là Chủ tịch nước, ở các nước thì họ gọi là Tổng thống hoặc Thủ tướng. Như vậy sẽ không còn bao biện làm thay cũng như buông lỏng lãnh đạo nữa. Xin nói thêm, Tổng bí thư của chúng ta còn là Bí thư Quân ủy trung ương, tức là người thống lĩnh lực lượng vũ trang. Trong khi đó, Hiến pháp lại ghi Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang. Như vậy là phân công trong Đảng và trong Nhà nước có sự chưa ăn khớp. Trong Hiến pháp của chúng ta vẫn ghi Chủ tịch Nước thống lĩnh lực lượng vũ trang, song không thực quyền trong thực tế, nếu nói theo pháp luật là chúng ta vi phạm Hiến pháp. Chỉ khi nào Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Nước thì chúng ta sẽ khắc phục được hiện tượng chưa ăn khớp đó, sự vi hiến đó. Vi hiến mà chúng ta coi là thói quen, coi là bình thường thì rất đáng phải báo động.
Mặt trận phải có tiếng nói tới nơi, tới chốn để đảm bảo tính dân chủ của mình
Đây cũng là vấn đề về quyền dân chủ của nhân dân. Và Mặt trận phải có tiếng nói tới nơi, tới chốn để Tổng bí thư, Bí thư cấp ủy các cấp, người có quyền lực chính trị lớn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, muốn vậy thì các đồng chí đó phải đồng thời đứng đầu cơ quan hành pháp. Quyền lực mà không gắn liền với trách nhiệm là điều tối kỵ vì nó không được kiểm soát, chẳng khác gì nhà vua, nhà vua thì không ai kiểm soát được.
Bàn về Mặt trận mà lại nói nhiều về Đảng vì tôi cho rằng, nói đến Mặt trận là nói đến dân vận, là nói đến đại đoàn kết, mà dân vận, đại đoàn kết là phải từ mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, là độc lập, tự do, hạnh phúc trên nền tảng dân chủ cộng hòa, nay là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tức là chỉ có trên nền tảng dân chủ, chỉ có trên nền tảng đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và năng lực lãnh đạo ngang tầm của Đảng thì Mặt trận mới làm tốt được chức năng dân vận, mới làm tốt được chức năng đại đoàn kết dân tộc.
"Để bảo đảm cho MT và các đoàn thể, cho Nhà nước và cho Nhân dân phát huy dân chủ, Đảng có nên tự coi mình là lực lượng lãnh đạo đương nhiên không?"
Nếu đường lối của Đảng không đáp ứng, năng lực lãnh đạo của Đảng không đáp ứng thì Mặt trận không tài nào làm tốt được chức năng dân vận, không tài nào làm tốt được chức năng đại đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy, tôi nói nhiều về Đảng, vì không thể tách rời Đảng ra khỏi Mặt trận, không thể tách Đảng ra khỏi Nhà nước trong điều kiện Đảng cầm quyền. Không trên nền tảng dân chủ thì Mặt trận sẽ không làm được những chức năng đó. Mà nền tảng dân chủ phải từ đường lối, chính sách của Đảng. Cho nên, nói về tính dân chủ của Mặt trận, không thể tách rời tính dân chủ của Đảng và Nhà nước được.
Để bảo đảm cho Mặt trận  và các đoàn thể, cho Nhà nước và cho Nhân dân phát huy dân chủ, Đảng có nên tự coi mình là lực lượng lãnh đạo đương nhiên không?
Một vấn đề nữa cũng rất quan trọng là Đảng phải tự xác định vị trí của mình trong Mặt trận như thế nào? Đảng vừa là thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng chính trị lãnh đạo Mặt trận. Vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng có phải là đương nhiên và mãi mãi không?
Tôi xin trích lời của Bác Hồ: "Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo" (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, NXB  Sự Thật 1983, Trang 115). Đây là Đảng giành địa vị lãnh đạo chứ không phải là Đảng bắt người ta thừa nhận vị trí lãnh đạo. Bác Hồ nói về địa vị lãnh đạo của đảng đối với Mặt trận cũng tức là nói với các đoàn thể khác, cả với nhà nước và xã hội.
Tư tưởng của Bác Hồ là tư tưởng lấy dân là gốc, dân là chủ. Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận, đòi hỏi dân phải thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải qua hoạt động thực tiễn, phải được Mặt trận và nhân dân suy tôn, lựa chọn. Lựa chọn đây là lựa chọn Cương lĩnh và người đứng đầu đất nước thông qua tổng tuyển cử.
Dân suy tôn và lựa chọn bằng cách nào. Dân suy tôn và lựa chọn Cương lĩnh phát triển của Đảng, lựa chọn người đứng đầu Đảng trở thành người đứng đầu đất nước thông qua tổng tuyển cử. Bây giờ Cương lĩnh của Đảng chưa được dân lựa chọn, chưa được dân bỏ phiếu, người đứng đầu Đảng chưa sang ứng cử chức danh người đứng đầu đất nước. Dân chưa được lựa chọn như vậy cho nên dân chưa được làm chủ thật sự.
Nếu Đảng coi mình đương nhiên là lực lượng lãnh đạo thì chẳng khác gì nhà vua cha truyền con nối. Từ một nhà vua cá nhân thời quân chủ, nay trở thành một nhà vua tập thể thời cộng hòa xã hội chủ nghĩa. Như vậy là Đảng chủ chứ không phải dân chủ.
Tính dân chủ phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và nổi trội trong cách mạng Xã hội chủ nghĩa mà chúng ta, cả Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể và cả xã hội ta còn yếu, chưa quen, chưa có truyền thống nên chúng ta vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Chúng ta phê phán, phân tích để vừa làm, vừa rút kinh nghiệm chứ không được phủ định sạch trơn. Tính dân chủ hiện nay còn yếu hơn tính dân tộc, song nó sẽ lớn dần, nổi trội và trở thành truyền thống như tính dân tộc. Mặt trận và các đoàn thể chúng ta cũng sẽ lớn lên cùng với cả hai tính chất đó. Phải chăng Đảng, Nhà nước và cả Xã hội chúng ta cũng sẽ lớn lên với cả hai tính chất đó, cả tính dân tộc và tính dân chủ chứ không phải chỉ riêng Mặt trận.
Nói đến Mặt trận là nói đến dân tộc, dân chủ, nói đến đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết vẫn có đấu tranh nhưng đấu tranh để đại đoàn kết. Đấu tranh là quy luật của sự phát triển, song đại đoàn kết lại là lực lượng vô địch cho sự phát triển. "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công" là để cân bằng lại với đấu tranh giai cấp cực đoan, với chuyên chính vô sản cực đoan, để tạo sức mạnh tổng hợp của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại nhằm đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng xã hội nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Đấu tranh và tình thương, trong đó tình thương phải vượt lên trên đấu tranh, tình thương phải vượt lên trên hận thù, vì lấy oán báo oán thì oán không bao giờ vơi, Đức Thích ca dạy chúng ta từ bi, Đức Giê su dạy chúng ta bác ái, Đức Khổng Tử dạy chúng ta nhân nghĩa. Bác Hồ của chúng ta đã tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, những tư tưởng tiến bộ của cách mạng tư sản phương tây, của chủ nghĩa Marx - Lenin, của các nhà minh triết phương Đông, của các vị cách mạng tiền bối Việt Nam, cho nên Tư tưởng - Minh triết Hồ Chí Minh cũng chính là Lý luận - Hành động Hồ Chí Minh, ngọn đuốc soi đường làm nên phong trào cách mạng Việt Nam. Bác nói: "Dân chủ là dân làm chủ". Dân chủ là chìa khóa đi tới tự do hạnh phúc. Điều đó cũng nói lên tầm quan trọng của tính dân chủ của Mặt trận và các đoàn thể, của cả Đảng, Nhà nước và Xã hội ta trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta phấn đấu sao cho tính dân chủ ngày càng nổi trội và cũng trở thành truyền thống như tính dân tộc.
Đọc thêm!

Nhà giáo, nhà văn, học trò

Nhân ngày 20. 11, tôi nhớ đến một nhà giáo mà các bạn học sinh hiện nay còn ít biết đến nhưng tất cả những ai đã đọc về nhà văn anh hùng Chu Cẩm Phong đều không thể không biết.

Đó là nhà giáo Hoàng Đình Hiếu.

Chúng ta đã biết cuốn nhật ký cuối cùng của Chu Cẩm Phong mà anh đem theo bên mình có một số phận thật kỳ lạ, ngỡ đâu đã bị vĩnh viễn cuốn đi vô tăm tích trong bão lửa chiến tranh bỗng lại châu về Hợp phố. Người đã gìn giữ trân trọng cuốn nhật ký ấy suốt bốn năm không nề nguy hiểm chính là nhà giáo Hoàng Đình Hiếu, một sĩ quan quân đội Sài Gòn, sau biệt phái về dạy học tại trường Hồng Đức, Đà Nẵng. Anh Hoàng Đình Hiếu viết cho nhà báo Đặng Ngọc Khoa (báo Thanh Niên) rằng anh giữ cuốn nhật ký của Chu Cẩm Phong là nhằm bảo quản một tài liệu sống của thế hệ mình, vì nó mang tính thời đại, nó chứa đựng nét tiêu biểu cho một thế hệ thanh niên, nó là văn hoá. Những điều chia sẻ từ cuốn nhật ký ấy, Hoàng Đình Hiếu không thầm lặng giữ riêng cho mình. Một cựu nữ sinh trường Hồng Đức kể với nhà báo Đặng Ngọc Khoa: từ trước năm 1975, chị và các bạn cùng lớp đã được nghe thầy giáo Hoàng Đình Hiếu giới thiệu ngay trên bục giảng về nhật ký Chu Cẩm Phong cùng nhân cách đáng khâm phục của tác giả, một việc rất dễ phải gánh chịu tai hoạ. Vậy đó, những con người ở hai phương trời tư tưởng cách xa nhau, vào thời điểm đứng ở hai chiến tuyến đối nghịch nhau đã cùng gặp nhau ở một giá trị chung: giá trị làm người. (Mời xem thêm “Chu Cẩm Phong, nhà văn anh hùng” trên báo điện tử Hội Nhà văn Việt Namtrannhuong. com, nguyentrongtao. org, bauxitevietnam. blogpost. com).


Đối với tôi, với nội chất văn hóa và hành động dũng cảm vừa kể trên, nhà giáo Hoàng Đình Hiếu thật là một chiến sĩ văn hóa mới – như cách gọi của nhà văn hóa Nguyễn Hữu Đang trong tác phẩm “Một nền văn hóa mới” mà ông viết cùng nhà văn cách mạng Nguyễn Đình Thi vào đêm trước cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945.

Nhờ nhà giáo Hoàng Đình Hiếu, một số học sinh ở Đà Nẵng thời đó, trong một không gian văn hóa mà cái nhìn chính thống từ phía chúng ta thường coi là văn hóa nô dịch, đã biết đến phẩm chất anh hùng của Chu Cẩm Phong sớm hơn các học sinh miền Bắc.

Tháng 3 năm nay, 2010, nhà văn liệt sĩ Chu Cẩm Phong được nhà nước truy phong danh hiệu anh hùng. Trong lịch sử Hội Nhà văn Việt Nam, đây là nhà văn đầu tiên được phong danh hiệu anh hùng với tư cách nhà văn.

Tháng 8 năm nay, 2010, Hội nhà văn Việt Nam họp đại hội lần thứ 8. Tại đại hội, chủ tịch hội Hữu Thỉnh thay mặt ban chấp hành khóa 7 đọc bản báo cáo chính trị mang tên [] vì phẩm giá con người”Trong báo cáo, không có một dòng một chữ nào nói đến nhà văn anh hùng Chu Cẩm Phong cùng sự kiện nhà văn đầu tiên trong Hội được phong anh hùng với tư cách nhà văn.

Thấy hiện ra hai thái độ ngược nhau giữa nhà thơ Hữu Thỉnh hôm nay với nhà giáo Hoàng Đình Hiếu trước kia về cùng một giá trị văn hóa thiết yếu hàng đầu là “phẩm giá con người”.

Ở anh Hoàng Đình Hiếu là sự nâng niu trân trọng, bắt nguồn từ sự thôi thúc của một nhu cầu tự thân, mạnh mẽ đến mức bất chấp hiểm nguy, dám đưa một phẩm giá làm người tiêu biểu bên phía đối phương truyền bá cho lớp trẻ.

Ở anh Hữu Thỉnh là sự thờ ơ.

Với cương vị là Chủ tịch hội, chỉ trong chừng mực tối thiểu của ý thức trách nhiệm thôi, anh Hữu Thỉnh cũng không thể không tự buộc mình phải nêu cao tấm gương phẩm giá con người Chu Cẩm Phong vừa được nhà nước chính thức tôn vinh anh hùng, khi anh cầm bút viết bản báo cáo chính trị, mỉa mai thay, mang cái tên rất kêu:“ […] vì phẩm giá con người”.

Rõ ràng không có một sự thôi thúc bên trong nào khiến Hữu Thỉnh thấy cần nói đến Chu Cẩm Phong tại đại hội. Một sự thờ ơ không thể tha thứ. Tôi nghĩ, nhân danh máu của các anh hùng liệt sĩ trong quá khứ, với tư cách người đóng thuế để nuôi Hội Nhà văn, một tổ chức kế tục của Văn hóa Cứu quốc, nhân dân không thể tha thứ cho sự thờ ơ này.

Nhưng không chỉ Chủ tịch Hữu Thỉnh thờ ơ.

Ngay cả Phó Chủ tịch Nguyễn Trí Huân, người từng có mặt tại chiến trường Khu 5 đúng thời điểm (tháng 5 năm 1971) Chu Cẩm Phong vừa hy sinh, cũng thờ ơ, nếu không thì tại sao anh Huân không nhắc anh Thỉnh một tiếng khi thông qua dự thảo văn kiện tại ban chấp hành Hội để bổ sung vào báo cáo?

Và không chỉ Hữu Thỉnh, Nguyễn Trí Huân thờ ơ. Tất cả các đồng chí đồng đội đồng nghiệp của Chu Cẩm Phong trên chiến trường Khu 5 xưa kia giờ cũng thờ ơ, không ai nhắc chủ tịch Hữu Thỉnh lấy một tiếng khi họp hội nghị đảng viên trước đại hội một ngày để chuẩn bị lãnh đạo đại hội. Thậm chí toàn thể hơn 400 đảng viên hội viên trong hội nghị ấy cũng thờ ơ.

Mà không chỉ thờ ơ với Chu Cẩm Phong.

Thờ ơ với cả truyền thống cao đẹp của Văn hóa Cứu quốc trong quá khứ.

Thờ ơ với cả vận mệnh của Tổ Quốc, quyền lợi của của Nhân Dân hiện đang từng ngày từng giờ bị xâm hại ghê gớm bởi giặc bành trướng và giặc nội xâm. Khi có ý kiến đề nghị đại hội ra một bản tuyên bố về trách nhiệm của nhà văn trước tình hình đất nước và nhân dân hiện nay, nhà văn công an trung tướng Hữu Ước liền phát biểu “phản đối đại hội lên tiếng bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam không đúng chỗ”. Cả đại hội, từ những người ngồi trên chủ tịch đoàn điều khiển đại hội đến toàn thể các cử tọa bên dưới, tất thảy, không một ai – vâng, xin nhắc lại, không một ai – yêu cầu thảo luận vấn đề hệ trọng này, và tất thảy cùng nhau im lặng ra về. Thế là đại hội đã không ra được một bản tuyên bố mà Tổ Quốc và Nhân Dân mong đợi ở các nhà văn hội viên, trước hết là các hội viên đảng viên chiến sĩ nghệ sĩ tiền phong gương mẫu. Gần đây công luận nói nhiều đến tình trạng “sĩ phu ngoảnh mặt”. Ngoảnh mặt với Tổ Quốc, với Nhân Dân. Và ngoảnh mặt với chính tư cách yêu nước của bản thân mình. Có phải đại hội lần thứ 8 của Hội Nhà văn Việt Nam là bằng chứng bằng xương bằng thịt của tình trạng thảm hại này?

Rất nhiều nhà văn hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đã và đang có tác phẩm được giảng dạy trong nhà trường. Chắc chắn rằng các thầy cô giáo khi nói với học trò về tác giả, đều giới thiệu hùng hồn đây là một nhà văn/nhà thơ yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân dân. Nghe vậy, rất có thể  sẽ có không ít học trò nêu thắc mắc:

Thưa thầy/cô, liệu chúng em có thể tin rằng đây là một nhà văn/nhà thơ yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân dân khi nhà văn/nhà thơ này lại im lặng không dám nói lên tiếng nói yêu nước thương dân tại một “sinh hoạt chính trị quan trọng” (chỉ thị của Ban Bí thư) của hội mình là đại hội lần thứ 8 Hội Nhà văn Việt Nam?

Không biết các thầy/cô giáo sẽ trả lời học sinh thế nào?

Và các tác giả có tác phẩm được đem giảng dạy cho các em sẽ trả lời thế nào?

Đà Lạt 19. 11. 2010
Bùi  Minh  Quốc 
Đọc thêm!

Quyền lực mềm nhìn từ khía cạnh đối nội

Nguyễn Quang A



Năm ngày trước kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Trung Quốc Việt Nam, sáu ngày trước ngày quân Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 35 năm trước, Vietnamnet đã mời một khách quen của mình, giáo sư Joseph Nye, người được coi là cha đẻ của thuyết quyền lực mềm do ông đưa ra năm 1990, thăm Việt Nam. Quyền lực mềm trở thành một từ được rất nhiều học giả, chính trị gia nhắc đến. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng trên khắp thế giới, không chỉ để lại dấu ấn trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ mà ngay cả lãnh đạo cao nhất Trung Quốc, Hồ Cẩm Đào, cũng nhấn mạnh tại đại hội thứ 17 của đảng cộng sản Trung Quốc năm 2007 rằng Trung Quốc phải tăng cường quyền lực mềm của mình và thực tế Trung Quốc đã ngày càng tăng cường quyền lực mềm của mình ở mọi nơi bằng những hành động rất cụ thể.


Báo chí đưa tin về hoạt động 2 ngày của ông ở Việt Nam khá rầm rộ, kể cả việc ông gặp Thủ tướng, thuyết trình tại Bộ Ngoại giao, đủ thấy ông cũng có ảnh hưởng không nhỏ ở Việt Nam.

May mắn được trực tiếp nghe ông thuyết giảng sáng 13-1-2010 cho giới doanh nhân, tôi thấy ông rất khiêm tốn. Đúng là ông đưa ra thuật ngữ “quyền lực mềm” trong một bài báo năm 1990 và trình bày chi tiết hơn trong sách, nhiều bài báo và bài thuyết trình khác, nhưng theo ông quyền lực mềm cổ như chính con người và được sử dụng ở mọi nơi, từ Trung Quốc cổ đại, Đức thời phát xít, Liên Xô thời cộng sản, Mỹ tư bản, v.v.



Theo ông, quyền lực là khả năng tác động đến ứng xử của những người khác để có được những kết quả mình mong muốn và có ba cách cơ bản để làm việc đó: ép buộc họ bằng sự đe doạ (bạo lực, kinh tế,...); dụ dỗ họ bằng lợi ích (vật chất, danh vọng,...); hay thu hút, hấp dẫn họ (bằng sức hấp dẫn, các giá trị, tư tưởng,...). Hai cách trước thường được biết đến như dùng “cây gậy và củ cà rốt”, là cách dùng quyền lực cứng; cách thứ ba là cách dùng quyền lực mềm. Quyền lực mềm đến từ ba nguồn: văn hoá có sức hập dẫn người khác; các giá trị chính trị và đạo đức có sức hấp dẫn người khác; và các chính sách có sức hấp dẫn người khác. Sự thành công về kinh tế có thể tạo ra sức hấp dẫn, thậm chí quân đội cũng có thể tạo ra quyền lực mềm. Quyền lực mềm có thể được dùng cho mục đích tốt hay xấu. Sự kết hợp khéo léo giữa quyền lực cứng và quyền lực mềm được gọi là quyền lực thông minh.
Được thừa nhận là một nhà tư tưởng đối ngoại hàng đầu, các bài viết cũng như thuyết trình của giáo sư Joseph Nye nhấn mạnh đến quan hệ giữa các quốc gia, đến chính sách đối ngoại. Toạ đàm với nhà ngoại giao ông cũng nhấn mạnh khía cạnh “đối ngoại” đó và đưa ra những lời khuyên bổ ích cho chính sách đối ngoại của Việt Nam, nhất là đối với khu vực và Trung Quốc. Nhiều người Việt Nam cũng đã đưa ra các lời khuyên tương tự, hy vọng với uy tín của mình lời khuyên của ông được các nhà chức trách cân nhắc cẩn trọng. 

Dưới đây chỉ muốn bàn sơ đến khía cạnh đối nội của quyền lực mềm.

Theo tôi biết ông không bàn sâu về khía cạnh này và điều đó cũng dễ hiểu đối với một chuyên gia hàng đầu về chính sách đối ngoại. Ông có bàn đến quyền lực mềm và sự lãnh đạo nói chung, ngay tại Bộ Ngoại giao ông cũng nói về “tính chính đáng”. Đấy là những điểm quan trọng cả về mặt đối nội nữa.

Quyền lực thể hiện trong mối quan hệ (thí dụ: giữa các nước; giữa người lãnh đạo và nhân viên; giữa những người cầm quyền và nhân dân). Chúng ta nói tới mối quan hệ thứ ba. 

Xét cho cùng quyền lực cứng và mềm ở trong nước là cái gốc, là quan trọng nhất để tạo ra quyền lực cứng và mềm với các nước khác. Nếu kết hợp khéo, chúng tạo ra các nguồn lực, giá trị, cơ sở cho quyền lực cứng và mềm trong quan hệ đối ngoại. 

Một nước mà tham nhũng tràn lan, lời nói của các quan không đi đôi với việc làm, sự bất bình của người dân với nhà cầm quyền ngày tăng lên, đời sống nhân dân nghèo khổ, chăm sóc ý tế kém, giáo dục sa sút, người dân bị tước mất hay bị cắt xén các quyền con người, không có tự do; nơi nhà cầm quyền độc đoán, đàn áp những người khác chính kiến và có tiếng nói khác; v.v., thì nước đó chẳng thể tạo ra các nguồn lực cho quyền lực cứng cũng chẳng có gì hấp dẫn với bên ngoài, tức là không có quyền lực cứng và mềm đối với các nước khác.

Càng tồi tệ hơn nếu có sự nhầm lẫn trong hiểu và áp dụng quyền lực cứng và mềm ở trong nước. 

Trong quan hệ nhà nước – người dân (kể cả các tổ chức kinh tế, xã hội dân sự) quyền lực cứng thể hiện ở năng lực ép buộc của nhà nước đối với việc thực thi các thoả thuận tư, với sự thực thi pháp luật, chứ không chỉ là nhà tù, lực lượng vũ trang và sự trấn áp. 

Nếu quyền lực cứng không được sử dụng tốt, nhất là khi các cơ quan nhà nước, các quan chức nhà nước không làm đúng pháp luật mà không bị trừng trị, khi kẻ ăn cắp vặt bị phạt nặng còn quan chức nhà nước tham ô, ăn hối lộ, ăn “hoả hồng” hàng chục triệu USD và gửi tiền sang ngân hàng Thuỵ Sỹ thì nhởn nhơ, thậm chí được thăng chức, v.v., thì không thể thuyết phục người dân tôn trọng thoả thuận tư, tôn trọng pháp luật, làm xói mòn cơ sở của quyền lực cứng. Chức càng cao mà không làm gương, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí làm sai pháp luật, thì càng làm xói mòn cơ sở của quyền lực cứng và cũng chẳng thể tạo ra quyền lực mềm. Trong quan hệ này, người dân phải tạo áp lực để các cơ quan nhà nước và các quan chức nếu không gương mẫu thì chí ít phải tôn trọng và thực thi nghiêm quy định pháp luật do chính họ đưa ra. Nếu các quan nhũng nhiễu, như lấy đất của dân chia chác lẫn nhau, thì nhà cầm quyền phải trừng trị thẳng thay “những kẻ cướp ngày đó”, còn nếu chỉ “bức xúc” thôi và không trừng trị, thì quyền lực cứng không được dùng và lấy đâu ra quyền lực mềm đối với dân chúng, nói chi với nước ngoài.

Ngược lại, nếu dùng các biện pháp kiềm chế, ép buộc, trấn áp với những hoạt động tạo cơ sở cho quyền lực mềm như trong hoạt động văn hoá, báo chí, xã hội dân sự, tự do tư tưởng, đấu tranh cho quyền con người, v.v., thì làm sao có thể tạo ra các nguồn lực cho quyền lực mềm trong đối nội và đối ngoại. 

Báo chí không được đưa những thông tin không có lợi cho đất nước, cho dân tộc. Nghe có vẻ rất đúng, nhưng thế nào là không có lợi? Ai có quyền phán xét về tính có hại hay có lợi đó. Nghe rất có lý, nhưng có thể bị lạm dụng để biến thành một công cụ của quyền lực cứng bị lạm dụng rất tai hại cho đất nước.

Mới bàn sơ sơ mà đã thấy vấn đề không đơn giản, không dễ dàng. Chỉ có thực sự tôn trọng các quyền con người, nhất là quyền của cá nhân, của thiểu số, tạo cơ hội cho tranh luận lành mạnh, các cơ quan nhà nước và quan chức nhà nước phải gương mẫu trước tiên trong tuân thủ pháp luật,..., thì từng bước chúng ta mới củng cố được quyền lực cứng và quyền lực mềm của mình, cả trong đối nội lẫn đối ngoại. Đó là sự tương tác hai chiều, chứ không phải một chiều. Quan chức nghiêm túc, tôn trọng pháp luật, tận tuỵ phục vụ, người dân tham gia tích cực thì sẽ tạo ra một vòng phản hồi tốt. Nếu làm ngược lại thì sẽ tạo ra vòng luẩn quẩn và nói về quyền lực cứng và mềm cũng chẳng có ý nghĩa mấy.
Đọc thêm!

Một dân tộc may mắn hay bất hạnh là do người lãnh đạo dân tộc ấy?

Nguyễn Quang A

Tôi đặt thêm dấu hỏi (?) vào một khẳng định do Ts. Mai Liêm Trực nêu ra trong buổi trực tuyến với Vietnamnet. Trong buổi trực tuyến đó, Ts. Mai Liêm Trực và Gs. Dương Phú Hiệp đã đề cập đến nhiều vấn đề (nhằm góp ý cho đại hội Đảng cộng sản Việt Nam sắp tới).

Ý kiến của hai vị được đông đảo bạn đọc tán thưởng. Tôi cũng chia sẻ nhiều ý kiến của hai ông. Riêng về khẳng định nêu trên tôi muốn bàn thêm một chút. Có thể do báo chưa nêu rõ khung cảnh của lời khẳng định, hay nói chưa hết ý của ông Mai Liêm Trực. Tôi thực tình nghĩ thế, nhưng chỉ xin lạm bàn riêng về khẳng định đó thôi.

Khẳng định này nhiều lắm chỉ đúng một nửa. Nó chỉ đề cập đến khía cạnh nhân sự, sự anh minh hay ngu dốt của người giữ vị trí lãnh đạo cao nhất mà chưa đả động gì đến khía cạnh thể chế của vị trí đó..

Lãnh đạo cao nhất, dẫu được gọi là vua, thống chế, tổng thống hay chủ tịch-tổng bí thư, trước hết là một định chế do luật hay luật tục quy định.

Nếu số phận của một dân tộc bị phó mặc cho (những) người lãnh đạo, dù đôi khi có may mắn chứ không phải bất hạnh đi nữa do có lãnh đạo sáng suốt, thì dân tộc ấy vẫn thực sự chưa trưởng thành, vẫn trong vòng mông muội và là dân tộc bất hạnh.

Có thể chế để nhân dân định kỳ lựa chọn và phế truất một cách văn minh (những) người lãnh đạo cao nhất, có các thể chế để giám sát, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước nhằm hạn chế chúng lạm dụng quyền lực và đánh giá thành tích của các nhà lãnh đạo,…, mới là cái quan trọng nhất cho sự phồn thịnh của một dân tộc. Đó là thể chế của nền dân chủ.

Nhân dân, với tư cách là người chủ của đất nước, phải được quyền và có cách thích hợp để thực hiện sự lựa chọn và phế truất ấy (phế truất một cách hòa bình văn minh hay gấp vạn lần phế truất bằng bạo lực, đó là cách phế truất bằng lựa chọn những người khác lên nắm quyền). Như vậy, thể chế đó ít nhất phải bao gồm thể chế bầu cử tự do và cạnh tranh chính trị (tức là ít nhất có 2 đảng chính trị tranh đua để nắm quyền), chuyển giao quyền lực từ những người được chọn cũ sang cho những người được chọn mới. Tạo ra thể chế đó hay chí ít có lộ trình rõ ràng để đạt tới thể chế đó mới xứng được gọi là anh minh.

Một dân tộc cam chịu sống dưới chế độ chuyên chế, độc tài khi những người lãnh đạo luật hóa việc nắm quyền vĩnh viễn của họ (bằng chế độ gia truyền con nối hay bằng luật do chính họ làm ra chẳng hạn) là một dân tộc bất hạnh, dẫu cho đôi khi có một lãnh tụ anh minh thực sự vì dân. Nhưng lãnh tụ được coi là “anh minh” đó (và theo ông Mai Liêm Trực dân tộc được may mắn đó) cũng chưa thật anh minh nếu ông hay bà ta không thay đổi tận gốc cái thể chế đó, vẫn chưa dũng cảm xóa bỏ sự luật hóa nêu trên, vẫn để cho những người kế vị mình có quyền vin vào luật hay hiến pháp để hòng duy trì sự lãnh đạo vĩnh viễn.

Lãnh tụ cũng là con người với tài năng và khiếm khuyết nhất định. Không ai là thánh, không bao giờ sai lầm cả. Tính có thể sai là bản tính con người, là tính phổ quát. Chọn được những người tài, ít khiếm khuyết (nhưng nhất thiết có khiếm khuyết) là việc quan trọng.

Thủ tục chọn (đăng ký, vận động, bầu cử, kiểm phiếu, giám sát, giải quyết tranh chấp [nếu có], công bố kết quả, chuyển giao quyền lực) là những vấn đề kỹ thuật mà nhiều người coi là “hình thức” và không tiếc lời phỉ báng chúng là các đặc trưng nền dân chủ “hình thức”, lại chính là cái cốt lõi nhất của thể chế lựa chọn văn minh nêu trên. Họ coi “dân chủ” của mình mới là dân chủ thực ngàn lần hơn dân chủ hình thức, nhưng đáng tiếc thiếu những thủ tục “hình thức” ấy thì cái gọi là dân chủ chỉ là dân chủ trá hình.

Một đất nước không có các thủ tục hình thức đó hay có trên danh nghĩa nhưng không được thực thi nghiêm túc trên thực tế, thì đất nước ấy, dân tộc ấy vẫn là dân tộc bất hạnh dẫu thi thoảng gặp may có được một nhà độc tài nhân từ.

Trong một xã hội dân chủ, vẫn có thể chọn nhầm lãnh đạo, song còn có các thể chế khác hạn chế quyền lực của người lãnh đạo làm cho “tai hại do lãnh đạo tồi gây ra” bớt đi, và đến hết nhiệm kỳ người dân chọn những người khác (vẫn có thể sai, nhưng nếu một dân tộc ù lỳ đến mức có quyền được chọn mà liên tục chọn sai, thì không nên trách ai về sự bất hạnh nữa).

Còn trong chế độ chuyên chế, phi dân chủ việc họa may có được một lãnh đạo anh minh cũng chỉ là chuyện may thi thoảng mà thôi, còn bất hạnh thì thường trực. Người dân không có quyền lựa chọn. Xác suất của sự duy trì chuyên chế (dùng bạo lực, đe dọa và trấn áp) là rất cao, và dân tộc nào cam chịu sống dưới chế độ như vậy là dân tộc bất hạnh.

Số phận của dân tộc không thể bị phó mặc cho sự may rủi, không thể để bị phó mặc cho một (hay một số) cá nhân.

Như vậy cái phần thể chế quan trọng không kém cái phần nhân sự. Cho nên, nói “khâu cán bộ là quyết định” nhiều nhất cũng chỉ đúng một nửa.

Một dân tộc không có thể chế lựa chọn và phế truất lãnh đạo và chịu để cho sự may mắn hay bất hạnh của mình phụ thuộc vào vị lãnh đạo dân tộc quả thực là một dân tộc bất hạnh.
Đọc thêm!

Cần vẽ lại bản đồ kinh tế của Việt Nam

Doãn Mạnh Dũng

Việt Nam có muốn trở thành một cường quốc không?


Tất cả người Việt Nam đều trả lời: Có. 


Nhưng Việt Nam làm thế nào để trở thành một cường quốc?


Mỗi người có một câu trả lời khác nhau. Với tôi, việc đầu tiên là cần phải vẽ lại bản đồ kinh tế của Việt Nam.


Vậy tại sao?



Một cường quốc là một quốc gia phát triển mạnh mẽ về kinh tế, có của ăn của để. Quốc gia đó đủ sức tạo công ăn việc làm và có môi trường sống tốt đẹp cho mọi người. Muốn vậy quốc gia đó phải đủ tài chính chăm lo giáo dục, y tế, an sinh xã hội, chăm lo cho những người lính. Không thể để những người lính vừa cầm súng bảo vệ Tổ quốc vừa phải đi kinh doanh để kiếm sống. Vậy quốc gia đó lấy tiền từ đâu?


Để hiểu bản chất nền kinh tế, trước hết chúng ta cần xác định lại phương pháp luận về tư duy nguồn gốc tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Sau nhiều năm nghiên cứu, tôi tin rằng giá trị hàng hóa và dịch vụ được tạo nên bởi công thức sau:


G = Lq + Lg + Lt + T (1)

G: là giá trị hàng hóa và dịch vụ.

Lq: là lao động quá khứ. Đó là cơ sở hạ tầng, truyền thống văn hóa, vốn bằng tiền tự có hay đi vay… Đó là lao động quá khứ của chính mình hay phải đi vay.

Lg: Lao động giản đơn hiện tại.

Lt: Lao động trí tuệ hiện tại.

T: tài nguyên thiên nhiên.

Chúng ta cần phân tích công thức (1) để hiểu Việt Nam đang ở đâu.

Với Lq, thì Việt Nam quả là nước nghèo vì cơ sở hạ tầng kém, vốn ít. Năm 2008 thu nhập bình quân Việt Nam 1024 USD/người (Dân trí 31/12/2008). Theo Báo cáo thường niên của Chương trình phát triển LHQ, Việt Nam xếp hạng nghèo 108/177 nước.

Với giáo dục, UNESCO xếp Việt Nam loại trung bình 64/127 nước. Như vậy, khả năng lao động trí tuệ (Lt) của chúng ta còn quá nhỏ bé. Cái chúng ta còn lại và có thể trở thành sức mạnh tạo ra nguồn tài chính lớn đó là T, nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Hãy nhìn lại 35 năm qua chúng ta đã cư xử như thế nào với nguồn tài nguyên?

Cách Hà Nội 100 km là Hải Phòng. Đầu thập niên 1980, người ta đắp đập Đình Vũ, xây dựng cảng nước sâu Đình Vũ, sau đó đào kênh Tráp, rồi bỏ kênh Tráp quay qua đào kênh Hà Nam, chán rồi bỏ cảng nước sâu Đình Vũ chuyển qua cảng nước sâu Lạch Huyện! Nói Hải Phòng trở thành một “phòng thí nghiệm” trong 35 năm qua cho các tư vấn trong và ngoài nước tiêu xài tiền thuế và vốn vay thật không quá đáng! Nhưng chẳng ai chịu trách nhiệm với “phòng thí nghiệm” trên.

Mang cái tư duy đó, họ vào cảng Sài Gòn, đưa ra giải pháp bỏ luồng sông Lòng Tàu dùng luồng sông Soài Rạp. Lúc đầu họ đưa ra kế hoạch cho tàu 100.000 tấn vào Sài Gòn bằng luồng Soài Rạp. Sau gần 15 năm, hiện nay luồng Soài Rạp chỉ chấp nhận tàu 15.000 tấn. Các tàu vào cảng Hiệp Phước vẫn phải theo luồng sông Lòng Tàu!

Trên tivi, khi báo về thời tiết áp thấp biển Đông ai ai cũng biết bão biển Đông xoáy theo chiều ngược kim đồng hồ. Vậy mà mấy ông Tiến sĩ học ở trời Tây về cứ khẳng định vịnh Dung Quất, Chân Mây, Đà Nẵng là những cảng kín gió của Việt Nam. Nhờ vậy vịnh Dung Quất được chọn là Trung tâm lọc dầu của Việt Nam, Chân Mây định chọn làm cảng trung chuyển quốc tế, còn Đà Nẵng được làm trung tâm kinh tế miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Khi gió mùa đông bắc đến thì cảng Chân Mây mệt mỏi. Khi bão đến phá nát vịnh Đà Nẵng và Dung Quất thì mọi việc đã rồi. Năm 2009 các tàu biển được xếp lên bờ vịnh Đà Nẵng là những bằng chứng miễn bàn. Hay nói cách khác, vịnh Chân Mây, vịnh Đà Nẵng, vịnh Dung Quất tiềm năng về cảng biển quá nhỏ bé. Tiềm năng nhỏ mà gánh nhiệm vụ lớn, đổ bể là cái chắc.

Trong tài nguyên có ba loại cơ bản sau:

- Loại tài nguyên không thể tái tạo và sau khi dùng sẽ bị mất như dầu thô, than, quặng bauxite…

- Loại tài nguyên trong quá trình dùng thì môi trường bị phá hoại mà lợi nhuận không thể bù đắp, ví dụ như luyện bauxite tại thượng nguồn sông Đồng Nai và sông Sê-brốc. Bùn đỏ sẽ tăng dần theo thời gian và đe dọa nguồn nước uống vùng hạ lưu.

- Loại tài nguyên có xu thế tốt hơn trong quá trình khai thác. Đó là tài nguyên địa lý giao thông.

Nhìn tổng quan, tài nguyên lớn nhất của Nam Bộ là đất phù sa và nước. Chính vì vậy Việt Nam nên tiếp nhận ý kiến của ông Philip Kotler – cha đẻ của marketing hiện đại: “Tại sao Việt Nam các bạn không phát triển trở thành nhà bếp của thế giới”.

Với tư tưởng trên, chúng ta nên xác định rõ Nam Bộ là Trung tâm cái bếp của Việt Nam cho thế giới.

Với việc tìm ra quy luật các con đê bằng cát Vân Phong, Cam Ranh, Trần Đề cùng có một góc 150 độ tính từ cực Bắc đã mở ra ý tưởng xây dựng luồng tàu biển mới qua Sóc Trăng để vào trung tâm kinh tế Cần Thơ. Như vậy muốn hay không, Sóc Trăng sẽ là đầu mối giao thông biển của các tỉnh miền Tây và Kampuchia ra biển.

Với miền Trung Việt Nam, dãy Trường Sơn như mái nhà của cả miền Trung. Bảo vệ rừng miền Trung là sự sống còn để con người có thể tồn tại và cư trú trên mảnh đất miền Trung. Luật bảo vệ rừng miền Trung cần được coi là luật hàng đầu để tồn tại hay không tồn tại. Trong tất cả nguồn tài nguyên miền Trung, nguồn tài nguyên địa lý giao thông tại vịnh Vân Phong nổi trội. Với vai trò không chỉ là đầu mối hàng hải Đông Nam Á mà còn có tiềm năng xây dựng đường sắt từ vịnh Vân Phong lên Tây Nguyên, sang Stungtơreng (Kampuchia) đến Pacxế (Lào) qua Upon (Thái Lan). Với động lực là vịnh Vân Phong, miền Trung có xu hướng từng bước trở thành “văn phòng hảng hải” của cả nước và hội nhập với thế giới. Vì vậy vịnh Vân Phong sẽ có vai trò ngày càng lớn trong kinh tế Đông Nam Á. Như vậy vịnh Vân Phong sẽ là trung tâm kinh tế miền Trung chứ không phải Đà Nẳng.

Như vậy với hiện tượng Vân Phong và luồng Trần Đề, bản đồ kinh tế của miền Trung và Nam Bộ sẽ thay đổi.

Chiến lược xây cảng tại Lạch Huyện cho thấy chiến lược kinh tế miền Bắc vẫn loay hoay sờ mó xem trong nhà còn gì để lấy ra xài chứ thiếu ý tưởng tạo ra cửa ngõ cho hàng hóa từ Côn Minh Trung Quốc ra biển, tạo dịch vụ thu lợi. Nếu mô hình cảng Hải Phòng tại sông Ruột Lợn được thực hiện thì đó là một cuộc cách mạng lớn trong tư duy và hàng hải. Và người Việt Nam đã tham gia vẽ lại bản đồ di chuyển hàng hóa của Trung Quốc. Tại sao nước cờ tốt hơn lại không dùng?

Với ba mô hình cảng Hải Phòng mới, cảng Vân Phong, luồng Trần Đề chúng ta buộc phải vẽ lại bản đồ kinh tế của Việt Nam.

Tháng 5/2003, tôi tham gia đưa đoàn Sứ quán Mỹ đi thăm vịnh Vân Phong. Bà Clair Pieange - Tham tán thương mại khi biết tôi là người đề xuất dự án cảng Trung chuyển quốc tế Vân Phong đã trực tiếp hỏi tôi: Có phải anh là người quê ở đây không? Mặc dầu tôi đã trả lời: không, bà vẫn đùa và hỏi lại tôi không dưới ba lần nữa.

Ngẫm lại, họ hỏi như vậy cũng đúng. Vì họ hiểu nền kinh tế Việt Nam sau khi mở cửa mang nặng màu sắc của nền kinh tế “Vinh quy bái tổ ”. Có nghĩa là các địa phương tìm mọi cách thu hút ngân sách từ Trung ương, nước ngoài, các chính sách ưu đãi của Trung ương cho địa phương mình bất chấp lợi ích toàn cục. Cả đời theo cách mạng, tuổi già sắp ra đi mà chưa làm được gì cho quê nhà thì nhắm mắt sao đành. Tấm lòng của các đại công thần là trong sáng, chân tình với quê hương. Chúng ta chia xẻ, cảm thông và ủng hộ. Nhưng làm như thế nào và bằng cách gì lại bị lũng đoạn bởi các tham mưu. Hậu quả các nguồn vốn, tài nguyên, nhân lực được đem đổ vào những chỗ hư vô. Dự án cảng Trung chuyển quốc tế Vân Phong được đưa ra từ 1/6/1997 tại Nha Trang, nhưng mãi đến ngày 31/10/2009 mới động thổ được. Chúng ta mất 12 năm 4 tháng để thẩm định và động thổ dự án. Với tốc độ như vậy khi nào Việt Nam mới thoát khỏi đói nghèo? Mô hình khu kinh tế mở Vân Phong được đưa ra từ năm 1998 nhưng vẫn bị xếp vào ngăn kéo trong khi nơi khác được ưu tiên. Những nơi được ưu tiên làm khu kinh tế mở đến nay chẳng ai muốn nhắc lại vì tiền đã tiêu hết mà hiệu quả dự án lớn lại quá nhỏ. Sau chiến tranh, hàng triệu người rất cần cái ăn, y tế, nhà ở, giáo dục, việc làm… Trong mỗi gia đình Việt Nam, chúng ta đã phải tiễn nhiều người thân trong 35 năm qua. Một thế hệ người Việt Nam phải rút ngắn tuổi thọ của mình vì nghèo đói và thiếu thốn về y tế. Buồn và thương cho số phận con người Việt Nam, sự chịu đựng của mọi người là quá lớn.

Dù sao, hôm nay chúng ta đang có cơ hội tuyệt vời để xây dựng đất nước, một cơ hội để Việt Nam trở thành một cường quốc. Chỉ khi trở thành cường quốc, chúng ta mới có cuộc sống tốt đẹp hơn tại Tổ quốc của chính mình. Và hơn nữa khi chúng ta trở thành một cường quốc thì chúng ta mới đủ sức để bảo vệ đất nước.

Chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ XI, người dân mong Đảng lắng nghe và có sự điều chỉnh về chính sách kinh tế của đất nước.

DMD 

Nguồn: http://kinhtebien.vn
Đọc thêm!

'TP HCM thành biển nước do sai lầm trong quy hoạch'

Kiên Cường
Biến đổi khí hậu diễn ra không phải một sớm một chiều, nước biển dâng là câu chuyện dự báo cho tương lai. Những yếu tố gây ngập tại TP HCM được nhiều chuyên gia cho rằng đang được tạo ra bởi con người, bởi tốc độ đô thị hóa, bê tông hóa, quy hoạch thiếu tầm".
Lâu nay các vị lãnh đạo chuyên môn và hành chính luôn lớn tiếng đổ thừa là tình trạng "nóng toàn cầu" (global warming) nên TP HCM (và Hà Nội) mới ngập càng ngày càng nặng như thế. Nhưng thực ra cho đến nay, trong giới khoa học quốc tế còn đang cãi nhau chán chê, và chưa ai hiểu global warming là cái gì đâu. Ấy thế mà, các vị lãnh đạo nhà ta đã nhanh nhẩu chớp lấy, coi như là cái "phao cứu mạng" để đổ vấy, lấp liếm trách nhiệm và sự dốt nát của mình vì nỗi không tìm được "lọ mắm tôm" nào khác!
Hóa ra các nhà quy hoạch vĩ đại của chúng ta đang làm "Yết Kiêu thời nay" và tự đục lấy thuyền của mình!
Nguyên Đình
clip_image001
Sau mỗi năm TP HCM lại ngập nặng hơn. Ảnh: Kiên Cường.
Thay vì phát triển về vùng cao phía Đông - Đông Bắc thì TP HCM lại chọn hướng ngược lại; các khu đô thị phía Nam Nhà Bè mọc lên tại các khu vực vùng trũng trước đây là hồ chứa nước khiến Sài Gòn ngày càng ngập nặng.

Nhận định này của nhiều chuyên gia về quy hoạch tại cuộc họp bàn về các giải pháp chống ngập trên địa bàn thành phố, diễn ra sáng nay, được không ít đại biểu gật gù hưởng ứng.

TP HCM nằm ở hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai - Sài Gòn nên được gọi là "đô thị ngập triều", do chịu ảnh hưởng của triều cường. Vùng đất thấp chiếm 61% diện tích với gần 7.900 km hệ thống kênh rạch chằng chịt là hệ thống thoát nước. Hướng thoát lũ chính của thành phố là từ Bắc - Tây Bắc - Đông Bắc xuống Nam - Đông Nam - Tây Nam..

"Càng mở rộng đô thị hiện đại ở vùng Nam Sài Gòn, Bình Chánh, quận 7, Nhà Bè, tức là đang ngăn đường thoát nước của thành phố", Giáo sư Lê Huy Bá nói.
Thực tế cho thấy, hiện nay khu đô thị Phú Mỹ Hưng ở Nam Sài Gòn tọa lạc ngay trên khu vực vùng trũng - nơi trước đây từng là những hồ tự nhiên chứa nước của thành phố. Thêm nữa, toàn bộ khu Nhà Bè, quận 7 - cửa thoát nước chính của Sài Gòn cũng đang bị đô thị hóa mạnh mẽ, mà hệ quả của nó là tình trạng san lấp kênh rạch vô tội vạ.

Cụ thể, TP HCM có gần 700 tuyến sông, kênh rạch, trong đó nhiều tuyến là đường thoát nước quan trọng. Nhưng trong khoảng 14 năm (từ 1990 đến 2004) đã có chừng 47 kênh rạch lớn nhỏ với tổng diện tích hơn 16 ha đã hoàn toàn bị san lấp. Hai quận 8 và 6 đang trong tình trạng ngập nặng vì quá trình đô thị hóa ở Nam Sài Gòn.

Đồng tình với quan điểm trên, nhiều đại biểu đã chỉ ra sai lầm trong quy hoạch của TP HCM. "Bài học kinh nghiệm ngay từ giai đoạn 1954-1975, các chuyên gia và nhà khoa học đã yêu cầu thành phố nên tập trung hướng phát triển về vùng cao là Đông - Đông Bắc, giới hạn phát triển về phía Nam - Nhà Bè - Cần Giờ vì vùng đất này yếu, trũng", ông Bạch Anh Tuấn thuộc Đại học Tôn Đức Thắng nói.

Tương tự, vì sao thành phố lại phát triển đô thị ở vùng đất thấp hơn, là câu hỏi được nguyên Viện trưởng Khí tượng thủy văn Phan Văn Hoạch đặt ra cho TP HCM.

Biến đổi khí hậu diễn ra không phải một sớm một chiều, nước biển dâng là câu chuyện dự báo cho tương lai. Những yếu tố gây ngập tại TP HCM được nhiều chuyên gia cho rằng đang được tạo ra bởi con người, bởi tốc độ đô thị hóa, bê tông hóa, quy hoạch thiếu tầm. Hậu quả là mỗi năm ngập lại càng nghiêm trọng. Thống kê cho thấy hiện toàn thành phố có 163 điểm ngập, phân bố đều ở cả 24 quận huyện.

Trước tình trạng đó, nhiều chuyên gia cho rằng bên cạnh những dự án chống ngập đang triển khai, thành phố phải đưa ra các giải pháp cấp bách hơn nữa. "Cấm tuyệt đối việc san lấp kênh rạch. Đối với các vùng trũng nên xây dựng hồ điều hòa dạng chìm chứa lượng nước chưa kịp tiêu thoát", ông Bá góp ý.

Các chuyên gia cũng đề xuất hạn chế tối đa quá trình đô thị hóa nhà cao tầng ở vùng Đông Nam thành phố; đưa ra cốt nền xây dựng phù hợp có tính toán đến tương lai trong 15 năm nữa. Ông Tuấn đề nghị giải pháp đơn giản là nhà, đường, đô thị phải có các mảng xanh hoặc những nơi nước mưa có thể thấm xuống được. Nhờ đó giữ lại được lượng nước đáng kể.

"Nếu không có sự chuyển biến ngay thì nhiều năm, thậm chí vài chục năm nữa chúng ta vẫn cứ ngồi đây để tiếp tục bàn về chống ngập", ông Hoạch nói.

Các dự án chống ngập đang triển khai tại TP HCM:
- Quy hoạch tổng thể về tiêu thoát nước TP HCM đến năm 2020 được Chính phủ phê duyệt năm 2001. Dự án nhằm cải tạo, xây dựng hệ thống nước mưa kết hợp cải tạo kênh rạch hồ chứa hiện có, cải tạo, nâng cao khả năng tiêu thoát nước của kênh rạch.
- Dự án Vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc Thị Nghè nạo vét mở rộng kênh kết hợp xây dựng bờ kè, xử lý nước thải trước khi đổ ra kênh. Dự án nâng cấp đô thị thành phố lưu vực kênh Tân Hóa - Lò Gốm giải quyết ô nhiễm, thoát nước của kênh này.
- Dự án cải thiện môi trường khu vực kênh Tàu Hủ - Bến Nghé - Kênh Đôi - Kênh Tẻ, rạch Hàng Bàng nhằm cải thiện điều kiện thoát nước khu vực này. Dự án quy hoạch chống ngập úng cho thành phố được Chính phủ phê duyệt tháng 10/2008, thực hiện các giải pháp cơ bản vấn đề ngập do triều, lũ lớn, mưa to bằng cách xây dựng hệ thống đê bao và cống kiểm soát mực nước.
Nguồn: Vnexpress
Đọc thêm!

Nhìn từ Tòa nhà cao nhất thế giới

This is taken from world's tallest building'Burj Dubai' @ 2,620 ft / 801m!!!

What do you think? 

Really amazing



Look at the edge (uppermost right corner) of the picture, you can almost see the turn of the earth 

The persons who are working on the upper most Girders can see the'ROTATION OF THE EARTH' 
So terrifying..
Đọc thêm!