Trang

Chủ Nhật, 2 tháng 1, 2011

Cần vẽ lại bản đồ kinh tế của Việt Nam

Doãn Mạnh Dũng

Việt Nam có muốn trở thành một cường quốc không?


Tất cả người Việt Nam đều trả lời: Có. 


Nhưng Việt Nam làm thế nào để trở thành một cường quốc?


Mỗi người có một câu trả lời khác nhau. Với tôi, việc đầu tiên là cần phải vẽ lại bản đồ kinh tế của Việt Nam.


Vậy tại sao?



Một cường quốc là một quốc gia phát triển mạnh mẽ về kinh tế, có của ăn của để. Quốc gia đó đủ sức tạo công ăn việc làm và có môi trường sống tốt đẹp cho mọi người. Muốn vậy quốc gia đó phải đủ tài chính chăm lo giáo dục, y tế, an sinh xã hội, chăm lo cho những người lính. Không thể để những người lính vừa cầm súng bảo vệ Tổ quốc vừa phải đi kinh doanh để kiếm sống. Vậy quốc gia đó lấy tiền từ đâu?


Để hiểu bản chất nền kinh tế, trước hết chúng ta cần xác định lại phương pháp luận về tư duy nguồn gốc tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Sau nhiều năm nghiên cứu, tôi tin rằng giá trị hàng hóa và dịch vụ được tạo nên bởi công thức sau:


G = Lq + Lg + Lt + T (1)

G: là giá trị hàng hóa và dịch vụ.

Lq: là lao động quá khứ. Đó là cơ sở hạ tầng, truyền thống văn hóa, vốn bằng tiền tự có hay đi vay… Đó là lao động quá khứ của chính mình hay phải đi vay.

Lg: Lao động giản đơn hiện tại.

Lt: Lao động trí tuệ hiện tại.

T: tài nguyên thiên nhiên.

Chúng ta cần phân tích công thức (1) để hiểu Việt Nam đang ở đâu.

Với Lq, thì Việt Nam quả là nước nghèo vì cơ sở hạ tầng kém, vốn ít. Năm 2008 thu nhập bình quân Việt Nam 1024 USD/người (Dân trí 31/12/2008). Theo Báo cáo thường niên của Chương trình phát triển LHQ, Việt Nam xếp hạng nghèo 108/177 nước.

Với giáo dục, UNESCO xếp Việt Nam loại trung bình 64/127 nước. Như vậy, khả năng lao động trí tuệ (Lt) của chúng ta còn quá nhỏ bé. Cái chúng ta còn lại và có thể trở thành sức mạnh tạo ra nguồn tài chính lớn đó là T, nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Hãy nhìn lại 35 năm qua chúng ta đã cư xử như thế nào với nguồn tài nguyên?

Cách Hà Nội 100 km là Hải Phòng. Đầu thập niên 1980, người ta đắp đập Đình Vũ, xây dựng cảng nước sâu Đình Vũ, sau đó đào kênh Tráp, rồi bỏ kênh Tráp quay qua đào kênh Hà Nam, chán rồi bỏ cảng nước sâu Đình Vũ chuyển qua cảng nước sâu Lạch Huyện! Nói Hải Phòng trở thành một “phòng thí nghiệm” trong 35 năm qua cho các tư vấn trong và ngoài nước tiêu xài tiền thuế và vốn vay thật không quá đáng! Nhưng chẳng ai chịu trách nhiệm với “phòng thí nghiệm” trên.

Mang cái tư duy đó, họ vào cảng Sài Gòn, đưa ra giải pháp bỏ luồng sông Lòng Tàu dùng luồng sông Soài Rạp. Lúc đầu họ đưa ra kế hoạch cho tàu 100.000 tấn vào Sài Gòn bằng luồng Soài Rạp. Sau gần 15 năm, hiện nay luồng Soài Rạp chỉ chấp nhận tàu 15.000 tấn. Các tàu vào cảng Hiệp Phước vẫn phải theo luồng sông Lòng Tàu!

Trên tivi, khi báo về thời tiết áp thấp biển Đông ai ai cũng biết bão biển Đông xoáy theo chiều ngược kim đồng hồ. Vậy mà mấy ông Tiến sĩ học ở trời Tây về cứ khẳng định vịnh Dung Quất, Chân Mây, Đà Nẵng là những cảng kín gió của Việt Nam. Nhờ vậy vịnh Dung Quất được chọn là Trung tâm lọc dầu của Việt Nam, Chân Mây định chọn làm cảng trung chuyển quốc tế, còn Đà Nẵng được làm trung tâm kinh tế miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Khi gió mùa đông bắc đến thì cảng Chân Mây mệt mỏi. Khi bão đến phá nát vịnh Đà Nẵng và Dung Quất thì mọi việc đã rồi. Năm 2009 các tàu biển được xếp lên bờ vịnh Đà Nẵng là những bằng chứng miễn bàn. Hay nói cách khác, vịnh Chân Mây, vịnh Đà Nẵng, vịnh Dung Quất tiềm năng về cảng biển quá nhỏ bé. Tiềm năng nhỏ mà gánh nhiệm vụ lớn, đổ bể là cái chắc.

Trong tài nguyên có ba loại cơ bản sau:

- Loại tài nguyên không thể tái tạo và sau khi dùng sẽ bị mất như dầu thô, than, quặng bauxite…

- Loại tài nguyên trong quá trình dùng thì môi trường bị phá hoại mà lợi nhuận không thể bù đắp, ví dụ như luyện bauxite tại thượng nguồn sông Đồng Nai và sông Sê-brốc. Bùn đỏ sẽ tăng dần theo thời gian và đe dọa nguồn nước uống vùng hạ lưu.

- Loại tài nguyên có xu thế tốt hơn trong quá trình khai thác. Đó là tài nguyên địa lý giao thông.

Nhìn tổng quan, tài nguyên lớn nhất của Nam Bộ là đất phù sa và nước. Chính vì vậy Việt Nam nên tiếp nhận ý kiến của ông Philip Kotler – cha đẻ của marketing hiện đại: “Tại sao Việt Nam các bạn không phát triển trở thành nhà bếp của thế giới”.

Với tư tưởng trên, chúng ta nên xác định rõ Nam Bộ là Trung tâm cái bếp của Việt Nam cho thế giới.

Với việc tìm ra quy luật các con đê bằng cát Vân Phong, Cam Ranh, Trần Đề cùng có một góc 150 độ tính từ cực Bắc đã mở ra ý tưởng xây dựng luồng tàu biển mới qua Sóc Trăng để vào trung tâm kinh tế Cần Thơ. Như vậy muốn hay không, Sóc Trăng sẽ là đầu mối giao thông biển của các tỉnh miền Tây và Kampuchia ra biển.

Với miền Trung Việt Nam, dãy Trường Sơn như mái nhà của cả miền Trung. Bảo vệ rừng miền Trung là sự sống còn để con người có thể tồn tại và cư trú trên mảnh đất miền Trung. Luật bảo vệ rừng miền Trung cần được coi là luật hàng đầu để tồn tại hay không tồn tại. Trong tất cả nguồn tài nguyên miền Trung, nguồn tài nguyên địa lý giao thông tại vịnh Vân Phong nổi trội. Với vai trò không chỉ là đầu mối hàng hải Đông Nam Á mà còn có tiềm năng xây dựng đường sắt từ vịnh Vân Phong lên Tây Nguyên, sang Stungtơreng (Kampuchia) đến Pacxế (Lào) qua Upon (Thái Lan). Với động lực là vịnh Vân Phong, miền Trung có xu hướng từng bước trở thành “văn phòng hảng hải” của cả nước và hội nhập với thế giới. Vì vậy vịnh Vân Phong sẽ có vai trò ngày càng lớn trong kinh tế Đông Nam Á. Như vậy vịnh Vân Phong sẽ là trung tâm kinh tế miền Trung chứ không phải Đà Nẳng.

Như vậy với hiện tượng Vân Phong và luồng Trần Đề, bản đồ kinh tế của miền Trung và Nam Bộ sẽ thay đổi.

Chiến lược xây cảng tại Lạch Huyện cho thấy chiến lược kinh tế miền Bắc vẫn loay hoay sờ mó xem trong nhà còn gì để lấy ra xài chứ thiếu ý tưởng tạo ra cửa ngõ cho hàng hóa từ Côn Minh Trung Quốc ra biển, tạo dịch vụ thu lợi. Nếu mô hình cảng Hải Phòng tại sông Ruột Lợn được thực hiện thì đó là một cuộc cách mạng lớn trong tư duy và hàng hải. Và người Việt Nam đã tham gia vẽ lại bản đồ di chuyển hàng hóa của Trung Quốc. Tại sao nước cờ tốt hơn lại không dùng?

Với ba mô hình cảng Hải Phòng mới, cảng Vân Phong, luồng Trần Đề chúng ta buộc phải vẽ lại bản đồ kinh tế của Việt Nam.

Tháng 5/2003, tôi tham gia đưa đoàn Sứ quán Mỹ đi thăm vịnh Vân Phong. Bà Clair Pieange - Tham tán thương mại khi biết tôi là người đề xuất dự án cảng Trung chuyển quốc tế Vân Phong đã trực tiếp hỏi tôi: Có phải anh là người quê ở đây không? Mặc dầu tôi đã trả lời: không, bà vẫn đùa và hỏi lại tôi không dưới ba lần nữa.

Ngẫm lại, họ hỏi như vậy cũng đúng. Vì họ hiểu nền kinh tế Việt Nam sau khi mở cửa mang nặng màu sắc của nền kinh tế “Vinh quy bái tổ ”. Có nghĩa là các địa phương tìm mọi cách thu hút ngân sách từ Trung ương, nước ngoài, các chính sách ưu đãi của Trung ương cho địa phương mình bất chấp lợi ích toàn cục. Cả đời theo cách mạng, tuổi già sắp ra đi mà chưa làm được gì cho quê nhà thì nhắm mắt sao đành. Tấm lòng của các đại công thần là trong sáng, chân tình với quê hương. Chúng ta chia xẻ, cảm thông và ủng hộ. Nhưng làm như thế nào và bằng cách gì lại bị lũng đoạn bởi các tham mưu. Hậu quả các nguồn vốn, tài nguyên, nhân lực được đem đổ vào những chỗ hư vô. Dự án cảng Trung chuyển quốc tế Vân Phong được đưa ra từ 1/6/1997 tại Nha Trang, nhưng mãi đến ngày 31/10/2009 mới động thổ được. Chúng ta mất 12 năm 4 tháng để thẩm định và động thổ dự án. Với tốc độ như vậy khi nào Việt Nam mới thoát khỏi đói nghèo? Mô hình khu kinh tế mở Vân Phong được đưa ra từ năm 1998 nhưng vẫn bị xếp vào ngăn kéo trong khi nơi khác được ưu tiên. Những nơi được ưu tiên làm khu kinh tế mở đến nay chẳng ai muốn nhắc lại vì tiền đã tiêu hết mà hiệu quả dự án lớn lại quá nhỏ. Sau chiến tranh, hàng triệu người rất cần cái ăn, y tế, nhà ở, giáo dục, việc làm… Trong mỗi gia đình Việt Nam, chúng ta đã phải tiễn nhiều người thân trong 35 năm qua. Một thế hệ người Việt Nam phải rút ngắn tuổi thọ của mình vì nghèo đói và thiếu thốn về y tế. Buồn và thương cho số phận con người Việt Nam, sự chịu đựng của mọi người là quá lớn.

Dù sao, hôm nay chúng ta đang có cơ hội tuyệt vời để xây dựng đất nước, một cơ hội để Việt Nam trở thành một cường quốc. Chỉ khi trở thành cường quốc, chúng ta mới có cuộc sống tốt đẹp hơn tại Tổ quốc của chính mình. Và hơn nữa khi chúng ta trở thành một cường quốc thì chúng ta mới đủ sức để bảo vệ đất nước.

Chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ XI, người dân mong Đảng lắng nghe và có sự điều chỉnh về chính sách kinh tế của đất nước.

DMD 

Nguồn: http://kinhtebien.vn
Đọc thêm!

'TP HCM thành biển nước do sai lầm trong quy hoạch'

Kiên Cường
Biến đổi khí hậu diễn ra không phải một sớm một chiều, nước biển dâng là câu chuyện dự báo cho tương lai. Những yếu tố gây ngập tại TP HCM được nhiều chuyên gia cho rằng đang được tạo ra bởi con người, bởi tốc độ đô thị hóa, bê tông hóa, quy hoạch thiếu tầm".
Lâu nay các vị lãnh đạo chuyên môn và hành chính luôn lớn tiếng đổ thừa là tình trạng "nóng toàn cầu" (global warming) nên TP HCM (và Hà Nội) mới ngập càng ngày càng nặng như thế. Nhưng thực ra cho đến nay, trong giới khoa học quốc tế còn đang cãi nhau chán chê, và chưa ai hiểu global warming là cái gì đâu. Ấy thế mà, các vị lãnh đạo nhà ta đã nhanh nhẩu chớp lấy, coi như là cái "phao cứu mạng" để đổ vấy, lấp liếm trách nhiệm và sự dốt nát của mình vì nỗi không tìm được "lọ mắm tôm" nào khác!
Hóa ra các nhà quy hoạch vĩ đại của chúng ta đang làm "Yết Kiêu thời nay" và tự đục lấy thuyền của mình!
Nguyên Đình
clip_image001
Sau mỗi năm TP HCM lại ngập nặng hơn. Ảnh: Kiên Cường.
Thay vì phát triển về vùng cao phía Đông - Đông Bắc thì TP HCM lại chọn hướng ngược lại; các khu đô thị phía Nam Nhà Bè mọc lên tại các khu vực vùng trũng trước đây là hồ chứa nước khiến Sài Gòn ngày càng ngập nặng.

Nhận định này của nhiều chuyên gia về quy hoạch tại cuộc họp bàn về các giải pháp chống ngập trên địa bàn thành phố, diễn ra sáng nay, được không ít đại biểu gật gù hưởng ứng.

TP HCM nằm ở hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai - Sài Gòn nên được gọi là "đô thị ngập triều", do chịu ảnh hưởng của triều cường. Vùng đất thấp chiếm 61% diện tích với gần 7.900 km hệ thống kênh rạch chằng chịt là hệ thống thoát nước. Hướng thoát lũ chính của thành phố là từ Bắc - Tây Bắc - Đông Bắc xuống Nam - Đông Nam - Tây Nam..

"Càng mở rộng đô thị hiện đại ở vùng Nam Sài Gòn, Bình Chánh, quận 7, Nhà Bè, tức là đang ngăn đường thoát nước của thành phố", Giáo sư Lê Huy Bá nói.
Thực tế cho thấy, hiện nay khu đô thị Phú Mỹ Hưng ở Nam Sài Gòn tọa lạc ngay trên khu vực vùng trũng - nơi trước đây từng là những hồ tự nhiên chứa nước của thành phố. Thêm nữa, toàn bộ khu Nhà Bè, quận 7 - cửa thoát nước chính của Sài Gòn cũng đang bị đô thị hóa mạnh mẽ, mà hệ quả của nó là tình trạng san lấp kênh rạch vô tội vạ.

Cụ thể, TP HCM có gần 700 tuyến sông, kênh rạch, trong đó nhiều tuyến là đường thoát nước quan trọng. Nhưng trong khoảng 14 năm (từ 1990 đến 2004) đã có chừng 47 kênh rạch lớn nhỏ với tổng diện tích hơn 16 ha đã hoàn toàn bị san lấp. Hai quận 8 và 6 đang trong tình trạng ngập nặng vì quá trình đô thị hóa ở Nam Sài Gòn.

Đồng tình với quan điểm trên, nhiều đại biểu đã chỉ ra sai lầm trong quy hoạch của TP HCM. "Bài học kinh nghiệm ngay từ giai đoạn 1954-1975, các chuyên gia và nhà khoa học đã yêu cầu thành phố nên tập trung hướng phát triển về vùng cao là Đông - Đông Bắc, giới hạn phát triển về phía Nam - Nhà Bè - Cần Giờ vì vùng đất này yếu, trũng", ông Bạch Anh Tuấn thuộc Đại học Tôn Đức Thắng nói.

Tương tự, vì sao thành phố lại phát triển đô thị ở vùng đất thấp hơn, là câu hỏi được nguyên Viện trưởng Khí tượng thủy văn Phan Văn Hoạch đặt ra cho TP HCM.

Biến đổi khí hậu diễn ra không phải một sớm một chiều, nước biển dâng là câu chuyện dự báo cho tương lai. Những yếu tố gây ngập tại TP HCM được nhiều chuyên gia cho rằng đang được tạo ra bởi con người, bởi tốc độ đô thị hóa, bê tông hóa, quy hoạch thiếu tầm. Hậu quả là mỗi năm ngập lại càng nghiêm trọng. Thống kê cho thấy hiện toàn thành phố có 163 điểm ngập, phân bố đều ở cả 24 quận huyện.

Trước tình trạng đó, nhiều chuyên gia cho rằng bên cạnh những dự án chống ngập đang triển khai, thành phố phải đưa ra các giải pháp cấp bách hơn nữa. "Cấm tuyệt đối việc san lấp kênh rạch. Đối với các vùng trũng nên xây dựng hồ điều hòa dạng chìm chứa lượng nước chưa kịp tiêu thoát", ông Bá góp ý.

Các chuyên gia cũng đề xuất hạn chế tối đa quá trình đô thị hóa nhà cao tầng ở vùng Đông Nam thành phố; đưa ra cốt nền xây dựng phù hợp có tính toán đến tương lai trong 15 năm nữa. Ông Tuấn đề nghị giải pháp đơn giản là nhà, đường, đô thị phải có các mảng xanh hoặc những nơi nước mưa có thể thấm xuống được. Nhờ đó giữ lại được lượng nước đáng kể.

"Nếu không có sự chuyển biến ngay thì nhiều năm, thậm chí vài chục năm nữa chúng ta vẫn cứ ngồi đây để tiếp tục bàn về chống ngập", ông Hoạch nói.

Các dự án chống ngập đang triển khai tại TP HCM:
- Quy hoạch tổng thể về tiêu thoát nước TP HCM đến năm 2020 được Chính phủ phê duyệt năm 2001. Dự án nhằm cải tạo, xây dựng hệ thống nước mưa kết hợp cải tạo kênh rạch hồ chứa hiện có, cải tạo, nâng cao khả năng tiêu thoát nước của kênh rạch.
- Dự án Vệ sinh môi trường lưu vực Nhiêu Lộc Thị Nghè nạo vét mở rộng kênh kết hợp xây dựng bờ kè, xử lý nước thải trước khi đổ ra kênh. Dự án nâng cấp đô thị thành phố lưu vực kênh Tân Hóa - Lò Gốm giải quyết ô nhiễm, thoát nước của kênh này.
- Dự án cải thiện môi trường khu vực kênh Tàu Hủ - Bến Nghé - Kênh Đôi - Kênh Tẻ, rạch Hàng Bàng nhằm cải thiện điều kiện thoát nước khu vực này. Dự án quy hoạch chống ngập úng cho thành phố được Chính phủ phê duyệt tháng 10/2008, thực hiện các giải pháp cơ bản vấn đề ngập do triều, lũ lớn, mưa to bằng cách xây dựng hệ thống đê bao và cống kiểm soát mực nước.
Nguồn: Vnexpress
Đọc thêm!

Nhìn từ Tòa nhà cao nhất thế giới

This is taken from world's tallest building'Burj Dubai' @ 2,620 ft / 801m!!!

What do you think? 

Really amazing



Look at the edge (uppermost right corner) of the picture, you can almost see the turn of the earth 

The persons who are working on the upper most Girders can see the'ROTATION OF THE EARTH' 
So terrifying..
Đọc thêm!

Thứ Bảy, 1 tháng 1, 2011

Những bức ảnh thế giới đẹp nhất 2010

Tạp chí Time đã công bố những bức ảnh thế giới đẹp nhất năm 2010. Các hình ảnh từ vị tổng thống Mỹ quyền lực tới người dân khốn khổ vì động đất tại Haiti được ghi lại rất sống động.


Tổng thống Mỹ Obama: Một năm trong nhiệm sở.


Động đất ở Haiti. Người Haiti đang nỗ lực khôi phục cuộc sống khi họ sống trang các khu lều tạm thời tại một trại tị nạn ở Port-au-Prince.



Những tử thi vô thừa nhận ở bên ngoài bức tường nghĩa trang tại Port-au-Prince



Núi lửa phun trào tại Iceland.



Mặt biển gần Venice, Louisiana hơn hai tháng sau thảm hoạ nổ dàn khoan làm hàng triệu tấn dầu tràn ra vịnh Mexico



Khi nhu cầu cung cấp nước của Ấn Độ tiếp tục gia tăng, thì bờ sông Hằng ngày một lùi xa và con sông ngày càng ô nhiễm



Ngôi nhà lỗ chỗ vết đạn, bị bỏ hoang gần hai năm sau cuộc đấu súng dữ dôi giữa quân đội Mexico với các thành viên băng đảng ma tuý La Familia



Gương mặt Florencio Avalos, một trong số 33 thợ mỏ bị mắc kẹt tại một mỏ khai thác ở Copiapó, Chile, trong hình ảnh video được thả xuống một lỗ khoan trong lòng đất tại khu vực mà các thợ mỏ tìm kiếm sự an toàn sau khi mắc kẹt



Lính thuỷ đánh bộ Mỹ tại điểm tuần tra Beatley ở tỉnh Helmand, Afghanistan



Một người đàn ông đi trên con phố ngập nước tại Nowshera. Nạn lụt làm hàng chục nghìn người phải di dời tại phía tây bắc Pakistan



Hình ảnh cuộc khủng hoảng thế chấp vẫn hiện diện. Đây là những vật dụng còn lại bên ngoài những căn hộ bị tịch thu thế nợ ở Orlando, Mỹ


Theo Time
Đọc thêm!

SINH CẢNH TOÀN CẦU VÀ NHỮNG CON ĐẬP “MADE IN CHINA”

NỬA TỈ NGƯỜI TRÊN HÀNH TINH NÀY


Cách đây 10 năm (11/ 2000) Ủy Hội Đập Thế Giới (WCD / World Commission on Dams), đã cho ấn hành một nghiên cứu rộng rãi trên toàn cầu về ảnh hưởng các con đập lớn và phát triển.
Mười năm sau 2010, Water Alternatives, là một nhóm độc lập gồm các nhà nghiên cứu, các chủ bút (independent academic online journal), đã cùng duyệt xét lại bản khảo sát của WCD, xem các con đập lớn hiện nay ảnh hưởng ra sao trên sinh cảnh môi trường, kinh tế xã hội và đời sống cư dân ven sông – khảo sát này không phải chỉ có thu hẹp trên những nạn nhân trực tiếp trên vùng xây đập bị cưỡng bách tái định cư mà bao gồm cả các cộng đồng dân cư phía hạ nguồn, tại 70 quốc gia nơi 120 con sông trên thế giới.
Theo Brian Richner, người chủ trì cuộc nghiên cứu và cũng là Giám đốc Chương Trình Bảo Tồn Thiên Nhiên ( Nature Conservancy) thì có gần nửa tỉ người (472 triệu) trong số này 85% là cư dân Á Châu sống dưới nguồn phải chịu hậu quả tiêu cực thật đáng ngại từ những con đập lớn do hủy hoại môi trường, phá rừng, làm mất nguồn cá, mất đồng cỏ nuôi gia súc… Điển hình là vùng hạ lưu sông Mekong, nếu không kể đám thị dân, thì đã có hơn 40 triệu người chủ yếu là nông và ngư dân, sống bằng nguồn tài nguyên của con sông với nguồn lúa gạo, nguồn cá mà cá từ sông Mekong là nguồn protein chính của họ.

Như một điệp khúc, ai cũng biết Trung Quốc là quốc gia thượng nguồn của nhiều con sông, chỉ thích nói tới các lợi lộc của các con đập như sản xuất điện, điều hòa lũ lụt và tạo thuận thủy lợi cho nông nghiệp. Nhưng lại hầu như không đề cập tới những hậu quả tiêu cực và ảnh hưởng lâu dài trên sinh cảnh, môi trường và đời sống cư dân dưới nguồn.


Theo cuộc khảo sát của nhóm Water Alternative (June 3, 2010), thì có sự bùng phát xây cất các con đập lớn trên toàn thế giới: từ con số 5,000 con đập năm 1950 nay lên tới 50,000 con đập. Chỉ riêng Brazil, xứ sở của túc cầu đã có tới 1,700 dự án xây đập mới.

Cũng theo Brian Richner, ở một thời kỳ mà cao trào xây đập đã trải rộng trên toàn cầu như vậy, thì chúng ta càng phải khôn ngoan và thận trọng hơn ngay từ bước khởi đầu hình thành dự án cho tới phương thức điều hành các con đập để có thể “giảm thiểu” tác hại của các con đập trên đời sống con người và sinh cảnh”. [12]

Chẳng hạn, làm sao bảo đảm các con đập “phải xả ra đủ nước” để duy trì dòng chảy và bảo tồn sinh cảnh và duy sự sống nơi hạ nguồn.

Nhận xét: điều này chỉ phản ánh lòng mong mỏi không thực tế và cả nghịch lý nữa do “mâu thuẫn quyền lợi” đối với quốc gia và công ty sở hữu các con đập. Ví dụ trong mùa hạn hán vừa qua, khi mà chính những hồ chứa các con đập Vân Nam cũng thiếu nước để vận hành giàn turbines, phải bảo đảm cung cấp đủ điện cho các khu kỹ nghệ đang phát triển rất nhanh ở các tỉnh Tây Nam Trung Quốc, trong tình huống cực đoan ấy mà lại yêu cầu Trung Quốc lấy “từ tâm tự nguyện” xả nước từ các hồ chứa cũng đang thiếu nước chỉ để cứu các khúc sông cạn hạ nguồn “rõ ràng là một yêu cầu không tưởng”.

NHỮNG CON ĐẬP LAN THƯƠNG – MEKONG


Theo dự báo của Chương Trình Môi Sinh Liên Hiệp Quốc (UNEP/ U.N. Environment Program) thì dân số vùng hạ lưu sông Mekong sẽ tăng lên 90 triệu vào năm 2025 với 1/3 sẽ chọn sống ở các khu đô thị [1], còn lại 2/3 cư dân ven sông, chủ yếu là ngư dân và nông dân đã và đang chịu hậu quả trực tiếp và tích lũy những tác hại của các con đập Vân Nam.
Do cơn khát năng lượng để đáp ứng nhu cầu kỹ nghệ phát triển, rõ ràng Trung Quốc thì vẫn cứ ráo riết xây thêm những con đập bậc thềm Vân Nam (Mekong Cascades) với cái giá kinh tế xã hội và môi sinh phải trả của các quốc gia vùng hạ lưu.
Hiện nay 2010, đã có ba con đập (1) Mạn Loan/ Manwan 1,500 MW, (2) Đại Chiếu Sơn/ Daichaosan 1,350 MW, (3) Cảnh Hồng / Jinghong 1,350 MW đã hoạt động toàn công suất, con đập thứ tư (4) Tiểu Loan/ Xiaowan 4,200 MW cao nhất thế giới 292 mét (lớn thứ hai sau con đập Tam Hợp / Three Gorges trên sông Dương Tử), với diện tích hồ chứa hơn 190 km2 và dung tích 15 tỉ mét khối, bắt đầu lấy nước sông Lan Thương – Mekong từ 2009 dự trù phải cần tới 4 năm tới 2012 mới lấy đủ nước vào hồ chứa, nhưng đơn vị phát điện đầu tiên của đập Tiểu Loan đã bắt đầu hoạt động từ 25 tháng 9, 2009. Theo Wang Yongxiang , tổng quản trị Hydrolancang còn có thêm ba con đập nữa đang xây trong chuỗi 14 con đập bậc thềm Vân Nam. [13]
_ Không chỉ xây đập trên suốt nửa chiều dài sông Mekong chảy qua tỉnh Vân Nam, Trung Quốc còn thao túng trong các kế hoạch xây những con đập Hạ lưu trên lãnh thổ Lào như: Pak Beng 1,320 MW, Pak Lay 1,320 MW, Sanakham 1,000 MW và Cam Bốt : Sambor 2,600 MW (lớn hơn con đập Mạn Loan/ Manwan Vân Nam chỉ có 1,500 MW) với tổn phí lên tới 5 tỉ $US.
Hai con đập Sambor và Don Sahong cùng với dự án các con đập Hạ lưu phía bắc sẽ “đe dọa tới 70% sự sống còn của các đoàn “di ngư” từ Cam Bốt. [3]
[Hình I] GMS _ Greater Mekong Subregion
Lưu Vực Lớn Sông Mekong hay Tiểu Vùng Sông Mekong Mở Rộng
Diện tích: 795,000 km2
Chiều dài chính: 4,400 km
Dòng chảy trung bình: 15,000 m3 / sec
[ nguồn: MRC Secretariat 2000 ]

Hội Nghị Thượng Đỉnh Mekong, Hua Hin Thái Lan
Trước sức ép của công luận, của các nhóm hoạt động môi sinh và gay gắt nhất là phong trào dân chúng từ các cộng đồng cư dân hạ lưu phản đối chống Trung Quốc và mạnh mẽ nhất là từ các tỉnh đông bắc Thái – nạn nhân trực tiếp của những khúc sông Mekong khô hạn.
Trước mối đe dọa sông Mekong cạn dòng do chuỗi đập thượng nguồn Vân Nam, bốn quốc gia Đông Nam Á thuộc lưu vực sông Mekong gồm Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đã nhóm họp tại thành phố biển Hua Hin, 200 km phía nam Bangkok, để cùng thảo luận về phương cách khai thác bền vững nguồn tài nguyên sông Mekong. Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva, cho dù đang phải đương đầu với cuộc khủng hoảng chánh trị có thể đưa tới nội chiến, nhưng vẫn đến khai mạc hội nghị thượng đỉnh này với tuyên bố khẳng định:
“Sông Mekong đang bị đe dọa nghiêm trọng vì sự lạm dụng nguồn nước và hậu quả của biến đổi khí hậu. Nếu không có một chính sách khai thác thận trọng và hợp lý các nguồn tài nguyên sông Mekong, con sông hùng vĩ này không thể nào sống còn”.
Cũng để xoa dịu nỗi căm phẫn của cư dân khu vực hạ lưu, Bắc Kinh cử một phái đoàn quan sát do phó Ngoại trưởng Tống Đào / Song Tao tới dự hội nghị. Không là thành viên của Ủy Hội Sông Mekong, không bị một ràng buộc nào ngoài tư cách “tham dự đối thoại”. Như từ bao giờ, Bắc Kinh vẫn khẳng định do tình trạng hạn hán nghiêm trọng mới là nguyên nhân đưa tới con sông Mekong cạn dòng – và cũng khá trớ trêu là phân tích của chính Ủy Hội Sông Mekong / MRC cũng hậu thuẫn cho luận điểm đó của Trung Quốc. [4] Và đó là lý do tại sao các nhà hoạt động môi sinh đã lên án Ủy Hội Sông Mekong thất bại trong việc bảo vệ dòng sông Mekong. [5]
Trước sức ép của công luận, Bắc Kinh bắt đầu chịu chia xẻ một phần dữ kiện thủy văn liên quan tới hai con đập Vân Nam. Cũng nên ghi lại ở đây cái cảnh tiếp đón khá bẽ bàng mà Trung Quốc đã dành cho phái đoàn 4 nước thuộc Ủy Hội Sông Mekong qua ghi nhận của Boonchai Ngamvitrot, Giám đốc phòng Nghiên cứu Thủy văn của Thái Lan:
“Ngày đầu đoàn đến thăm Đập Cảnh Hồng, đến đập quan sát khoảng 1 tiếng, phía Trung Quốc cho phép chụp hình. Ngày thứ hai, đoàn đi thăm Đập Tiểu Loan, quan sát khoảng 1 tiếng nhưng tại đây họ không cho chụp hình. Tiếp đoàn chỉ có 5 hay 6 cán bộ công ty thủy điện, không có cấp đại diện chánh phủ hay bộ Thủy lợi Trung Quốc đi cùng. Chúng tôi nói chuyện rất ít, hầu như chỉ đi xem là chính”. [15]
Nếu gọi đó là chuyến đi quan sát thực địa / fact-finding, thì chỉ với vỏn vẹn 2 giờ đồng hồ đó, phái đoàn 4 nước đã thu thập được những thông tin gì nơi 2 con đập ấy ?
Ngoài chiến dịch tình cảm rất hời hợt ấy, trước sau Trung Quốc vẫn khăng khăng từ chối trách nhiệm về tình trạng cạn dòng của con sông Mekong trong thời gian vừa qua. [2] Với những lý lẽ, vẫn là sự lặp lại, không có gì mới và không thuyết phục, đó là:
  1. Theo phái đoàn Trung Quốc thì chỉ có 13.5% lưu lượng sông Mekong đổ xuống từ khúc sông Lan Thương / thượng nguồn, so với lưu lượng trung bình hàng năm sông Mekong đổ ra Biển Đông, nên các con đập Vân Nam không có ảnh hưởng đáng kể tới hạ nguồn; không những thế các hồ chứa còn có tác dụng tích cực là điều hòa dòng chảy, ngăn ngừa lũ lụt và cải thiện dẫn thủy tiêu tưới cho nông nghiệp.
    Nhận xét: nhưng theo Milton Osborne, chuyên gia uy tín về Đông Nam Á và là tác giả những cuốn sách nghiên cứu về Sông Mekong (như : The Mekong: Turbulent Past, Uncertain Future; River Road to China: The Search for the Source of the Mekong) thì trong Mùa Khô, lưu lượng nước sông Lan Thương ( tên Trung Quốc của sông Mekong) ở một số nơi, chiếm tới 40% lượng nước sông Mekong , gấp 3 lần con số Trung Quốc đưa ra là 13.5%. [11]
  2. Phái đoàn Trung Quốc cho rằng không phải chỉ có các quốc gia hạ lưu chịu cảnh con sông Mekong cạn dòng, mà chính hàng triệu cư dân các tỉnh Tây Nam Trung Quốc cũng bị thiếu nước và hạn hán nghiêm trọng trong thời gian vừa qua.
    Nhận xét: do thay đổi khí hậu, đã thiếu mưa, hạn hán, khi mà mực nước hồ chứa các con đập xuống thấp tới gần “mực nước chết”và để duy trì mức sản xuất điện cho các khu kỹ nghệ… thì 40% nguồn nước trong mùa khô bị giữ lại trong các con đập Vân Nam, thì hậu quả thiếu nước và cạn dòng dưới nguồn trầm trọng hơn là thế nào.
  3. Cũng phái đoàn Trung Quốc đã phủ nhận tiếng nói báo động của các nhóm hoạt động môi sinh, và lên án những “lượng giá của họ về tác hại của các con đập Vân Nam là hoàn toàn không có cơ sở / groundless” vì Mekong cạn dòng là do “thiếu mưa / low rainfall” chứ không vì nguyên nhân nào khác.
    Nhận xét: đã thiếu mưa trên toàn lưu vực từ thượng xuống hạ nguồn, trong suốt mùa khô, trông chờ nước do nguồn tuyết tan từ cao nguyên Tây Tạng để duy trì dòng chảy thiên nhiên vốn có từ ngàn năm của con sông Mekong thì nay nguồn nước ấy bị giữ lại trong hồ chứa khổng lồ của các con đập Vân Nam và cảnh “thượng nguồn tích thủy, hạ nguồn khan” tưởng là hiển nhiên vậy mà vẫn bị Trung Quốc phủ nhận. [11]
Nói gì đi nữa thì cho đến nay Trung Quốc vẫn cương quyết từ chối gia nhập Ủy Hội Sông Mekong để không bị ràng buộc bởi bất cứ quyết định nào của tổ chức này. Dưới mắt cư dân hạ nguồn thì Trung Quốc là một khuôn mặt “bất nhẫn” hay nói theo ngôn từ ngoại giao nhẹ nhàng hơn thì Bắc Kinh hoàn toàn “vô cảm” với những khó khăn của các quốc gia ven sông nơi lưu vực dưới sông Mekong. 

NHỮNG CON ĐẬP Á CHÂU

Trên Sông Irrawaddy:
Trung Quốc đã khởi công xây con đập thủy điện lớn nhất Miến Điện, Myitsone 3,600 MW trên sông Irrawaddy từ cuối năm 2007. Vị trí con đập nằm ngay trên hợp lưu của hai nhánh sông, cách Myitsone thủ phủ của bang Kachin 42 km về hướng bắc.
Theo tờ báo của nhà nước Miến Điện, The New Light of Myanmar, từ tháng 5 năm 2007 Miến Điện đã hoàn tất phác thảo 7 dự án thủy điện trên sông Irrawaddy với tổng công suất lên tới 13,360 MW, do một ký kết giữa Công Ty Đầu Tư Điện Lực Trung Quốc (CPI / China Power Investment Corporation) và Bộ Điện Lực Miến Điện.
Nhưng theo Tổ Chức Môi Sinh Kachin có trụ sở ở Chiang Mai Thái Lan, thì tình trạng đàn áp nhân quyền cư dân địa phương trên luôn luôn diễn ra trên vùng xây đập. Di sản thiên nhiên và văn hóa của sắc tộc Kachin đang bị hủy hoại, với hơn 40 ngôi làng quanh vùng xây đập sẽ hoàn toàn bị ngập lụt và hơn 10 ngàn cư dân thì bị mất hết nhà cửa và bị cưỡng bách phải di dời. Chưa kể đến trường hợp nếu con đập bị xập do động đất sẽ gây thảm họa cho hàng triệu cư dân nơi hạ nguồn. ( Bắc Miến là vùng động đất đang hoạt động / seismically active zone giống như Vân Nam) [9]
Mới đây 6/ 2010, khi Thủ Tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tới thăm giới lãnh đạo quân phiệt Miến Điện để thảo luận về “các vấn đề năng lượng” cũng có nghĩa là hai nước sẽ phải đẩy mạnh kế hoạch xây các con đập thủy điện trên lãnh thổ Miến. Đập Myitsone trên sông Irrawaddy chỉ là một trong 9 dự án án và ngoài Công Ty Đầu Tư Điện Lực Trung Quốc CPI thì nay có thêm một công ty xây đập lớn khác của Trung Quốc CDT (China Datang Corporation), tham dự vào.
Cho dù gặp sự chống đối mạnh mẽ của sắc dân Kachin, điển hình là đã xảy ra các vụ nổ bom (17/04/2010) nơi công trình xây đập khiến 4 công nhân xây đập Trung Quốc chết và nhiều người khác bị thương, thì ngay sau đó dân Kachin bị quân đội bắt bớ, tra tấn và đàn áp dữ dội hơn. Kế hoạch cưỡng bách tái định cư / forcibly relocated và tiến độ xây đập vẫn không hề bị chậm lại. [10]
Cũng dễ hiểu tại sao Trung Quốc vẫn chuộng ký kết hợp đồng làm ăn với các thể chế độc tài, nhân danh ổn định chánh trị bằng đàn áp.
Trên Cao Nguyên Tây Tạng:
Xứ tuyết Tây Tạng là vùng đất cao từ 3,500 tới 5,000 mét, được mệnh danh là “nóc của trái đất”, các con sông lớn như mạch sống cho toàn vùng Châu Á đều bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng. Phía đông ngoài hai con sông lớn Hoàng Hà và Dương Tử hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, còn phải kể tới ba con sông khác: Mekong, Irrawaddy và Salween. Phía tây và tây nam là các con sông: Indus, Sutlej và Yarlung Zangpo – Yarlung Zangpo còn được mệnh danh là “con sông cao nhất thế giới”.
Bắc Kinh đã xác nhận với Ấn Độ là, Hoa Lục sẽ xây con đập đầu tiên trên con sông Yarlung Zangbo – Brahmaputra, vốn là một con sông lớn, chảy xuyên qua rặng Hy Mã Lạp Sơn, đổ xuống một đại vực (grand canyon) lớn và sâu nhất, trước khi chảy sang Ấn Độ. Đây là dòng sông huyết mạch của bao nhiêu triệu cư dân Ấn.
Các chuyên gia Hoa Lục còn cho họ biết sẽ xây thêm 4 con đập nữa trong vùng thung lũng giữa hai quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất của những con đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. [6]
Nguồn năng lượng mới này tương đương với 100 triệu tấn than đá, hoặc bằng toàn trữ lượng dầu khí trên Biển Đông / it could generate energy equivalent to all the oil and gas in the South China sea. [14]
Ai cũng biết Biển Đông đang là “vùng tranh chấp nóng” giữa Trung Quốc, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á.
Ấn Độ đã bày tỏ mối quan tâm về những con đập sắp tới của Trung Quốc, sẽ có ảnh hưởng hủy hoại sinh cảnh vốn đã mong manh của vùng Hy Mã Lạp Sơn và nhất là tác động trực tiếp trên lưu lượng con sông Brahmaputra, là nguồn cung cấp nước cho các vùng nông nghiệp và kỹ nghệ các tỉnh Đông Bắc Ấn Độ. Nỗi lo ngại của Ấn càng gia tăng khi nhận thức được rằng qua các con đập, Bắc Kinh sẽ hoàn toàn kiểm soát nguồn nước cung cấp cho vùng đất 90,000 km2 đang trong vòng tranh chấp biên giới giữa hai nước.
[ Tưởng cũng nên nhắc lại là trong quá khứ đã xảy một cuộc Chiến tranh Biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ (Sino-Indian War) vào tháng 10 năm 1962, trên cao độ hơn 4,000 mét, sau đó tuy ngưng bắn nhưng tình hình vẫn căng thẳng và vấn đề biên giới giữa hai nước chưa được giải quyết. Nay nhìn lại, người ta không thể không liên hệ yếu tố chánh trị phía sau cuộc chiến này: sự vùng dậy của nhân dân Tây Tạng bị Trung Quốc thẳng tay đàn áp (1959) và sau đó Tân Đề Ly đón nhận Đức Đạt Lai Đạt Ma vào Ấn Độ tỵ nạn đã gây cho Bắc Kinh không ít giận dữ ].
Cũng như với các con đập thượng nguồn Sông Mekong, lập luận của Trung Quốc bao giờ cũng là tiếng nói “phủ nhận” ảnh hưởng của chuỗi đập trên cao nguyên Tây Tạng đối với nguồn nước của Ấn Độ.
Bằng một giọng khá trịch thượng và cả thách thức với một cường quốc láng giềng có cả vũ khí nguyên tử là Ấn Độ, giới chức Bắc Kinh cho rằng họ không có ràng buộc nào để phải công khai hóa kế hoạch của họ với Tân Đề Li, nhưng họ đã làm như vậy để tạo sự tin cậy và giảm thiểu căng thẳng giữa hai quốc gia. [Sic]
Yan Zhiyong, tổng giám đốc Nhóm Tham vấn Thủy điện Trung Quốc (China Hydropower Engineering Consulting Group) nhận định : “Tây Tạng là nguồn dự trữ thủy điện lớn nhất so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Chuyển điện điện từ Tây Tạng sang các tỉnh miền Đông sẽ giải quyết vấn đề thiếu năng lượng đáng kể của Trung Quốc”.
Anant Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp của Ấn Độ cho rằng kế hoạch xây đập tràn lan của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung Quốc nhưng chắc chắn sẽ ảnh hưởng tác hại mối quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta cũng không quên so sánh :
Ấn Độ bị báo động vì những con đập trên sông Yarlung Zangbo- Brahmaputra, cũng giống như với các quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đối với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn sông Langcang – Mekong”. [6] 

NHỮNG CON ĐẬP TRÊN LỤC ĐỊA PHI CHÂU:


Theo báo Economist, Châu Phi là một lục địa ít xây đập nhất. Cũng là lục địa thiếu nước và thiếu điện nhất. Đó là vùng đất hứa để xây thêm những con đập và Trung Quốc là quốc gia bỏ tiền xây nhiều con đập mới ở Phi Châu, nhưng hiệu năng của những con đập ấy thường dưới xa mức dự tính do khí hậu thất thường, tiên đoán thủy văn không chính xác cộng thêm với tham nhũng về chính trị nên Châu Phi không phải là “đắc địa” để Trung Quốc vội vã đầu tư thêm vàokỹ nghệ xây đập [7], ngoài những kế hoạch đang sinh lợi khác như thuê đất, phá rừng lấy gỗ và chuyên trở các nguồn tài nguyên từ Phi Châu về Trung Quốc.

XÂY ĐẬP TOÀN CẦU: TRUNG QUỐC VÀ NHÂN QUYỀN


Phân nửa những con đập lớn trên hành tinh này là nằm trong lãnh thổ Trung Quốc và Bắc Kinh cũng là chủ nhân các đại công ty xây đập lớn nhất thế giới.
Chỉ mấy thập niên trước đây thôi, Trung Quốc còn cần yểm trợ kỹ thuật của các công ty xây đập Tây Phương, như với tập đoàn đa quốc gia EHDC (Ertan Hydroelectric Development Corporation) khi thực hiện dự án đập Tam Hợp (Three Gorges projects). Nhưng cũng lúc đó, Trung Quốc có ngay chiến lược làm ăn với các công ty ngoại quốc, họ đặt ra yêu cầu các công ty này phải chấp nhận cho sản xuất phân nửa những giàn turbines và các nhà máy phát điện ngay tại Trung Quốc với sự tham gia của các kỹ sư thủy điện và công nhân kỹ thuật Trung Quốc. Một hình thức thu hút kỹ thuật cao của Tây Phương vào Trung Quốc trong một thời gian ngắn với gía rẻ.
Trước mối lợi nhuận hàng tỉ Mỹ kim, các đại công ty Tây Phương như ABB, Alstom, General Electric and Siemens đã chấp nhận giải pháp này cũng có nghĩa đồng ý chuyển giao quy trình công nghệ xây đập cho Trung Quốc. Và các nhóm kỹ sư trẻ Trung Quốc đã không bỏ lỡ cơ hội, rất mau chóng học hỏi và làm chủ các khâu kỹ thuật xây đập của ngoại quốc và rồi không lâu sau đó, Trung Quốc đã có thể tự chế tạo và sản xuất mọi trang bị cho kỹ nghệ xây đập ngay tại Hoa Lục.
Để rồi ngày nay, Trung Quốc vượt qua các bậc thầy, thống lĩnh thị trường xây đập toàn cầu, nhận xây 19 trong số 24 dự án đập lớn nhất thế giới. Không có con số chính xác, nhưng có thể nói rằng không ít các giàn turbines và trang thiết bị xây các con đập lớn nhỏ ở Việt Nam hiện nay đều mang thương hiệu Made in China, điều phỏng đoán ấy chắc không sai.
Nhưng ngoài vấn đề Hoa Lục làm chủ được kỹ thuật xây đập, nhiều người đã tự hỏi bằng cách nào Trung Quốc đạt được những thành tựu “xuất cảng kỹ nghệ xây đập” nhanh như vậy sang nhiều quốc gia khác ?
Giám đốc chánh trị Mạng Lưới Sông Thế giới (IRN/ International River Network), Peter Bosshard đã tìm được lời giải đáp. Đó là, trong khi các đối tác Tây phương tuy có nhiều kinh nghiệm và kỹ thuật cao hơn nhưng cũng vì biết quan tâm nhiều hơn tới ảnh hưởng môi trường và tác động xã hội của từng con đập nói chung vì “tôn trọng nhân quyền” họ đã rất “dè dặt và bảo thủ” , trong khi đó phía Trung Quốc không có cùng mức độ quan tâm như vậy và Bắc Kinh chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội sinh lợi, cứ thế nhận đấu thầu và tiến tới cho dù không đáp ứng được những tiêu chuẩn môi sinh quốc tế. [8]
Nhưng rồi ra, trước công luận thế giới, Trung Quốc không thể nói là hoàn toàn vô can trước tác hại của những con đập nơi các quốc gia mà Trung Quốc trực tiếp đầu tư vào. Điển hình là những gì tệ hại đang diễn ra trong Lưu Vực Lớn Sông Mekong (GMS/ Greater Mekong Subregion); và báo chí đã đưa ra một ví von rất gợi hình là Trung Quốc đang liều lĩnh bước đi trên trên những tảng băng mỏng / China walks on thin ice. Một hình ảnh nước lớn Trung Quốc chắc chắn sẽ xấu xí hơn nếu cứ tiếp tục với những công trình xây dựng thiếu bền vững như vậy trên khắp hành tinh này.
Trung Quốc đã chia rẽ, khống chế được các nước nhỏ Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, nhưng khi Bắc Kinh hành xử ngang ngược chặn nguồn nước một nước láng giềng lớn như Ấn Độ, liệu có dễ dàng như vậy không hay là bắt đầu “châm ngòi” cho một cuộc “chiến tranh vì nước”.
NGÔ THẾ VINH
Đọc thêm!